Cô giáo trường biên giới vui mừng vì câu chuyện thật được ghi nhận, lan tỏa
“Nhận tin bài viết đạt giải, tôi mừng lắm! Đây là cuộc thi lớn, nghĩa là sẽ có nhiều người biết đến ngôi trường dân tộc bán trú ở vùng biên giới xa xôi, biết đến thầy hiệu trưởng tâm huyết, hết lòng vì học sinh”.
Cô Trần Thị Thu Hiền – GV Trường PT DTBT THCS Nậm Típ (Kỳ Sơn, Nghệ An) đạt giải cuộc thi viết “Những tấm gương tâm huyết, sáng tạo học và làm theo lời Bác”.
Đó là chia sẻ của cô Trần Thị Thu Hiền, một trong những tác giả đạt giải cuộc thi viết “Những tấm gương tâm huyết, sáng tạo học và làm theo lời Bác” năm học 2020 – 2021. Tác phẩm của cô mang tên “Thầy hiệu trưởng vùng cao tâm huyết với sự nghiệp trồng người”. “Nhân vật” trong bài chính là thầy hiệu trưởng nơi cô Hiền dạy học – ngôi trường vùng biên giới khó khăn bậc nhất Nghệ An, nằm dưới nóc nhà của dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Cảm xúc từ tâm huyết của thầy hiệu trưởng
Cô Trần Thị Thu Hiền hiện là giáo viên môn Ngữ văn Trường Phổ thông DTBT THCS Nậm Típ (huyện Kỳ Sơn, Nghệ An). Nhưng cô chỉ mới về đây nhận công tác hơn 1 năm. Trước đó, cô đã từng có gần 15 năm dạy học tại Na Ngoi, cũng là một xã biên giới nằm dưới nóc nhà dãy Trường Sơn.
Khi nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới, cô Hiền không khỏi lo lắng. “Tôi có gọi cho hiệu trưởng là thầy Nguyễn Công Danh, và được thầy động viên, khích lệ “cứ sang đi, có khó khăn gì sẽ cùng nhau chia sẻ, giải quyết”. Bên cạnh đó, đồng nghiệp cũng đón nhận và giúp đỡ tôi nhiệt tình từ công việc đến sinh hoạt.
Thời gian đầu, tôi được tạo điều kiện ở nhà công vụ trong trường. Sau đó, do còn nuôi con nhỏ, nên tôi ra ngoài thuê nhà dân ở gần đơn vị bộ đội biên phòng của chồng, cách trường khoảng 4 – 5km”, cô Hiền cho biết.
Cô Trần Thị Thu Hiền cùng nữ đồng nghiệp tại Trường PT DTBT THCS Nậm Típ (huyện Kỳ Sơn, Nghệ An)
Ngôi trường mang tên con sông Nậm Típ dành cho học sinh 2 xã Mường Típ và Mường Ải. Trường có 417 học sinh nhưng có tới 301 em ở bán trú, chiếm hơn 75%. Lớp 7B của cô Hiền chủ nhiệm cũng có tới 27/33 học sinh bán trú, chỉ có 6 em nhà gần trường tự đi về. Học sinh bán trú được hưởng chế độ theo Nghị định 116 với mức hỗ trợ bằng 50% tháng lương cơ bản và 15kg gạo/học sinh/tháng. Số kinh phí này để đảm bảo nuôi ăn ở cho học sinh từ thứ 2 đến thứ 6 rất vất vả. Đặc biệt là các em đang “tuổi ăn tuổi lớn”.
Video đang HOT
Vì vậy, nhà trường tăng gia sản xuất để thêm thức ăn cho học sinh, và thầy hiệu trưởng Nguyễn Công Danh chính là người tiên phong. Để có vườn rau cho trò, thầy cô phải lội sang bên kia sông, khai hoang, cuốc đất. Chỉ ở gần sông mới có nước tưới. Thời gian rảnh, thầy Danh lại miệt mài lên nương. Vựa rau của thầy trò cứ thế ngày một rộng hơn.
Vườn rau xanh tốt do thầy cô Nguyễn Công Danh – Hiệu trưởng Trường PT DTBT THCS Nậm Típ khởi xướng và duy trì nhiều năm học
So với Na Ngoi, dù cũng là vùng biên giới, nhưng thời tiết, khí hậu ở 2 xã này khắc nghiệt hơn. Mùa hè nắng nóng, mùa mưa thường trực đối mặt với lũ quét, lũ ống. Ấy vậy mà vườn lúc nào cũng xanh tốt. Ngoài ra, trường còn nuôi hàng chục con lợn, thả gà, đào ao nuôi cá, ếch… để có thực phẩm tươi sạch cho trò.
“Tôi nhớ khi mới khai giảng xong, cũng đang vào mùa mưa lũ. Nước sông suối dâng cao, chảy xiết. Cô giáo và học sinh không dám sang bên vườn rau. Vậy mà thầy hiệu trưởng xắn quần, lội qua nước lớn để hái rau cho trò. Có lần thầy về quê ở huyện Tân Kỳ, chỉ lo mang theo 1 bì cây giống để trồng vụ mới. Hình ảnh ấy khiến tôi xúc động, ấn tượng mãi. Dù chỉ mới đến công tác ở trường, nhưng tôi cảm nhận được đó là người thầy cực kỳ tâm huyết, lo lắng cho học sinh từ những điều nhỏ nhất”, cô Hiền kể.
Mừng vì câu chuyện thật được công nhận, lan tỏa
Năm học 2020 – 2021, Bộ GD&ĐT phát động cuộc thi viết Những tấm gương tâm huyết, sáng tạo học và làm theo lời Bác. Thông tin cuộc thi cũng được Phòng GD&ĐT huyện Kỳ Sơn, Nghệ An gửi về các trường học trực thuộc. “Đọc thể lệ, tôi nghĩ ngay đến việc viết về thầy Danh. Đó thực sự là một tấm gương lớn để những giáo viên như chúng tôi noi theo”, cô Hiền nói.
Ngôi trường vùng biên giới này có tới 75% học sinh bán trú
Thời gian về trường, cô Hiền thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo phân công và được ban giám hiệu quan tâm hướng dẫn. Đối với công tác bán trú, dù ở trọ xa trường, cô Hiền vẫn nhận lịch trực quản lý học sinh. Trường PT DTBT THCS Nậm Típ có học sinh ở cả 3 thành phần dân tộc, Khơ Mú, Thái, Mông. Trong đó hộ nghèo chiếm tới 90%. Hòa nhập vào môi trường mới, cô cho biết sự tận tâm, nhiệt huyết với học sinh của giáo viên nhà trường được truyền lửa từ thầy hiệu trưởng.
“Đến nay, gần về hưu thầy vẫn đang “cắm bản”, dành phần lớn thời gian cho học sinh 2 xã biên giới Mường Típ, Mường Ải. Và cuộc thi của Bộ GD&ĐT, Báo Giáo dục và Thời đại tổ chức là dịp để tôi được nói những diều mình chứng kiến, cảm nhận. Và cứ thế tôi viết ra rất nhanh”, cô Hiền nói.
Người báo tin kết quả dự thi cho cô Hiền cũng chính là thầy Danh. “Hôm đó, tôi được thầy gọi điện chúc mừng, thông báo bài viết của mình đạt giải. Lúc đó, cảm xúc của tôi khó tả lắm, không dám tin, còn hỏi lại – “Có thật không thầy, thầy có… lừa em không”! Thầy giải thích do số điện thoại của tôi không liên lạc được, nên ban tổ chức gọi về cho Phòng GD&ĐT nhờ thông báo với nhà trường và tác giả. Lúc ấy tôi mới tin bài viết của mình đạt giải, và gọi báo tin cho mọi người”, cô Hiền nhớ lại.
Thầy Nguyễn Công Danh (đeo phù hiệu) giới thiệu với lãnh đạo tỉnh Nghệ An thăm bếp ăn bán trú của nhà trường
Cô Hiền cũng tâm sự, khi đặt bút viết, cô nghĩ mình chỉ là một giáo viên dạy văn bình thường ở một ngôi trường vùng sâu vùng xa. Chắc hẳn có nhiều người giỏi giang, tài năng hơn. Nhưng cô cứ viết bằng cảm xúc của mình, bằng những sự việc thực diễn ra hằng ngày. Câu chuyện về trường Nậm Típ, về thầy hiệu trưởng Nguyễn Công Danh là có thật chứ không phải hư cấu, tưởng tượng thêm vào. Khi gửi bài dự thi, cô cũng thầm ước mình được giải. Và giờ đây, điều ước đó đã thành sự thật.
Cô giáo vùng cao tâm sự thêm, dù chưa biết đạt giải gì, nhưng biết tin được giải đối với cô đã là một niềm vui to lớn, để cô chia sẻ với gia đình, đồng nghiệp, học sinh. “Cuộc thi được tổ chức trên toàn quốc, nghĩa là những gì mình viết được ghi nhận, nhiều người sẽ biết đến ngôi trường dân tộc bán trú ở vùng biên giới xa xôi, biết thầy hiệu trưởng tâm huyết, hết lòng vì học sinh. Đó cũng là ý nghĩa lớn nhất mà tôi nhận được” – cô Hiền bày tỏ.
Gặp thầy giáo tình nguyện lên "gieo chữ" ở nơi biên viễn
Nói về những khó khăn của giáo dục vùng biên là vô cùng. Câu chuyện thầy giáo Lê Đỗ Tuấn (SN 1983, giáo viên trường THCS Yên Khương, huyện Lang Chánh) với những năm tháng bám bản, bám lớp, vận động con em đến trường được ví như một cổ tích trong cảm mến của bà con vùng biên.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất thuộc xã Xuân Du, huyện Như Thanh, sau khi tốt nghiệp đại học, chàng thanh niên Lễ Đỗ Tuấn được phân công giảng dạy ở một trường miền xuôi. Tuy nhiên, với hoài bão và tình yêu thương với trẻ em vùng cao, Lê Đỗ Tuấn đã viết tâm thư xin tình nguyện lên xã vùng biên Yên Khương (huyện Lang Chánh) để công tác.
Chia sẻ về những lựa chọn của mình khi ấy, thầy Tuấn bảo đó là cái duyên. Và cái duyên đó bắt nguồn sau một chuyến đi thực tế của lớp đại học lên với trẻ em vùng cao, từ đó cho thầy những gần gũi, yêu thương.
"Cảm nhận cuộc sống của người dân vùng cao còn khó khăn, đặc biệt là trẻ, sự học vẫn chưa được các gia đình chú trọng, chính điều đó đã hun đúc quyết tâm, sự lựa chọn sau này của tôi", thầy Lê Đỗ Tuấn chia sẻ.
Mới đầu, sự lựa chọn bị gia đình, người thân khuyên nhủ, ngăn cản. Tuy nhiên, khi phân tích ý chí, nguyện vọng bản thân mọi người chuyển sang chúc "chân cứng đá mềm".
Năm 2006, khi mới lên với bà con vùng biên, nói về những khó khăn bấy giờ, thầy Tuấn bảo kể không xiết. Nào cách trở về ngôn ngữ, phong tục tập quán cho tới cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông...
Thầy nhớ, để đến với trường, với bản thì dốc Bả Vai án ngữ tuyến tỉnh lộ 530 bấy giờ được xem như rào cản lớn nhất về giao thông. Lần nào cũng vậy, để về thăm gia đình rồi lại ngược lên trường, lên lớp, chiếc Drem cũ vào mùa mưa lần nào cũng phải quấn xích để ngược dốc, chốc chốc lại phải dừng xe để gảy đất quanh bánh... Qua được dốc thì người cũng ướt như chuột lột. Thầy bảo, nếu không có sức khỏe thì khó có thể chinh phục được con đường.
Ngoài khó khăn về cơ sở vật chất, đường sá, giao thông thì việc vận động học sinh đến lớp, học sinh không bỏ học khó khăn và trở ngại lớn nhất. Nói vui, nhưng thực tiễn, có những hôm thầy cô nhà trường phải lên tận rẫy "bắt" học sinh về lớp học. Giải thích cho phụ huynh thì họ không nghe, còn bảo: "Không làm lấy gì để ăn, cái chữ có làm no cái bụng không?".
Để vận động con em tới lớp, chỉ mình thầy cô là không đủ. Nhà trường phải mời đến già làng, trưởng bản, người có uy tín vào cuộc. Nhiều nhà vì thế đã nghe theo.
Rồi những hủ tục trong dựng vợ, gả chồng, chuyện học sinh nay học mai bỏ để lấy vợ, lấy chồng là chuyện không hiếm lúc bấy giờ.
Thầy Tuấn lấy dẫn chứng từ chính học sinh của mình, đó là trường hợp em Vi Văn V - học tới lớp 9 thì bỏ, gia đình không cho đi học. Khi đó thấy Tuấn là chủ nhiệm lớp vào vận động. V bảo, bố mẹ bắt vợ cho rồi nên không học nữa, đi rẫy làm nương lo cái ăn thôi. Sau khi cán bộ thôn bản đến nhà phân tích, vận động thì gia đình mới cho V đi học trở lại. Bấy giờ V mới tâm sự là muốn đến lớp học, chơi với các bạn, chưa muốn lấy vợ.
Thầy Tuấn vui mừng khi không còn tình trạng học sinh bỏ học sớm
Còn nhiều câu chuyện mà chính bản thân thầy Lê Hữu Tuấn đến bây giờ vẫn không thể quên.
Chia sẻ thêm về đời tư, thầy Tuấn se se chiếc nhẫn cưới trên tay mở lòng: "Sau 3 năm công tác, thì cũng bén duyên với Lương Thị Huân (ở bản Chí Lý). Cưới vợ, cũng là lúc mình chấm dứt giai đoạn ở trọ để chuyển sang giai đoạn ở rể. Đến nay hai vợ chồng đã có nhà riêng, 2 mặt con".
Thầy Hà Văn Tấn - Hiệu trưởng Trường THCS Yên Khương chia sẻ: Vượt qua không ít những khó khăn, đến nay nhờ sự quan tâm của các cấp, ngành mà ngôi trường tranh tre ngày nào nơi thầy giảng dạy đã được thế chỗ bằng ngôi trường khang trang, rộng rãi. Tình trạng học sinh bỏ học cũng không còn diễn ra. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đăng ký đi xuất khẩu lao động, có thu nhập. Các gia đình đã nhận thức được vai trò của con chữ và xem nó như tiêu chí để thoát nghèo.
"Tôi đánh giá cao chuyên môn giảng dạy cũng như nhiệt huyết của thầy Tuấn. Trong suốt 15 năm gieo chữ ở ngôi trường còn nhiều khó khăn này, thầy Tuấn luôn là tấm gương sáng cho các thầy cô, học trò noi theo", Thầy Tấn nhấn mạnh.
Giáo viên vùng cao Yên Bái: Sách Ngữ Văn lớp 6 có nhiều điểm hay Phân tích sách kỹ để đưa ra cách thức dạy học hiệu quả là điều mà các nhà trường ở vùng cao Yên Bái thực hiện đối với các môn thay sách trong năm học tới. Giờ lên lớp của thầy trò Trường TH&THCS bán trú Lao Chải, huyện Mù Cang Chải. UBND tỉnh Yên Bái chính thức quyết định bộ sách lớp...