Cô gái kể về bí quyết giành học bổng các đại học ở Mỹ
Rời Việt Nam khi chưa tròn 14 tuổi, Nguyễn Hoàng Bảo Ngọc là nữ học sinh Việt đầu tiên sang học tại Trường trung học nội trú Saint James (top 5 bang Maine, Mỹ) và trở thành thành viên Hội đồng học sinh trường, dẫn dắt các khối lớp học sinh tại đây. Bảo Ngọc đã giành được nhiều học bổng quý giá.
Bảo Ngọc (giữa) trong một lần chia sẻ về hành trình những ngày đầu du học của mình – ẢNH: NỮ VƯƠNG
Mới đây, Ngọc nhận học bổng hơn 200.000 USD (gần 5 tỉ đồng) từ Texas Christian University (top 100 của Mỹ) và đỗ thêm gần 10 trường ĐH danh tiếng khác cũng nằm trong top 100 của Mỹ. Vậy bí quyết của Ngọc là gì?
Việc sắp xếp thời gian vô cùng quan trọng
Năm 2017, cô gái 13 tuổi Nguyễn Hoàng Bảo Ngọc đã săn học bổng thành công để bước vào hành trình học trung học nội trú tại Mỹ. Tại đây, với sự nỗ lực và cố gắng, Ngọc đã vượt qua được những rào cản ban đầu để khẳng định năng lực của mình nơi xứ người.
Qua bài luận, nhà trường có thể biết tính cách của bạn, nên bạn cần cho họ thấy những gì chân thật và giá trị nhất về bạn trong bài luận khoảng 650 chữ này. Hãy cho họ thấy cách bạn đối xử với gia đình, bạn bè, hay thiên nhiên. Những gì bạn nghĩ là tầm thường nhất, có khi lại là thứ có giá trị nhất ở bạn
Nguyễn Hoàng Bảo Ngọc
Điều khó khăn nhất của Ngọc lúc đầu là chưa biết sắp xếp thời gian như thế nào để có thể vừa học vừa tham gia đầy đủ các hoạt động ở trường. Ngọc chia sẻ: “Học trường công ở VN hầu như rất ít các hoạt động, qua bên Mỹ thì hoàn toàn ngược lại. Ở VN thì sáng dậy sớm đi học trên trường, hết học trên trường thì về đi học thêm, về nhà thì ăn vội gì đó rồi ngồi vào làm bài tập, ôn bài trước khi đi ngủ. Ngày nào cũng lặp đi lặp lại như vậy, không có hoạt động ngoại khóa, thể thao cũng không có bao nhiêu. Nên thời gian đầu qua môi trường bên đó, mình cũng gặp nhiều khó khăn”.
Ngọc kể ở Mỹ có 2 tiếng (từ 8 – 10 giờ) là giờ tự học và tại khung giờ đó giáo viên sẽ thu điện thoại. Mọi người sẽ nghĩ 2 tiếng là quá nhiều để làm bài tập, nhưng không phải ngày nào cũng sẽ có được 2 tiếng như vậy. Vì có những ngày phải đi thi đấu thể thao, mà thi đấu ở những trường khác rất xa, thời gian di chuyển đi về đã mất 4 tiếng, vì thế phải mang bài tập lên xe buýt để làm. Nên để có thể cân bằng lịch học và tham gia các hoạt động là không dễ dàng.
Thế rồi, từ một cô học trò tiếng Anh chưa thông thạo được như các bạn cùng trường, với những nỗ lực, cố gắng, Ngọc đã vinh dự được bầu vào Hội đồng học sinh trường, từ đó trở thành người dẫn dắt các khối lớp học sinh của trường.
Liên tục từ năm 2017 – 2021, cô học trò Việt Nam đã đoạt giải thưởng danh dự “Academic High Honor Roll”, giải “The Headmaster’s Prize” dành cho học sinh tiêu biểu nhất trường, rồi học bổng 5.000 USD cho những người có đóng góp tích cực cho cộng đồng trường…
Khi dịch Covid-19 xảy ra, Ngọc về lại VN, tối khuya thì học trực tuyến để hoàn tất chương trình học năm lớp 12 của Mỹ, ban ngày thì đứng ra tổ chức các sự kiện gây quỹ cho dự án Vì trẻ em khiếm thính Hear.Us.Now tại TP.HCM. Cô học trò nhỏ nhắn này dù ở môi trường nào cũng luôn dành thời gian cho các hoạt động cộng đồng.
Bài luận rất quan trọng
Chia sẻ về những bí quyết để giành học bổng và đỗ vào các trường ĐH danh tiếng của Mỹ, Ngọc cho biết trước tiên về học thuật thì cần có khả năng tiếng Anh tốt (IELTS, TOEFL) vì nhà trường cần biết là bạn có đủ khả năng học tập và sinh hoạt ở môi trường đó không. Ngoài ra, khả năng tiếng Anh cũng giúp việc học tập, sinh hoạt, kết bạn dễ dàng hơn.
Ngoài ra, điểm trong lớp (GPA) và thư giới thiệu của giáo viên cũng cực kỳ quan trọng. Các trường học ở Mỹ hướng tới những học sinh khá toàn diện và không chỉ giỏi về mặt học thuật. Tính cách, thái độ học tập và khả năng tiến bộ, đi xa của học sinh sẽ được thể hiện qua thư giới thiệu.
“Kế tiếp sẽ là những bài thi chứng chỉ như SAT hay ACT. Bản thân mình không có điểm ACT quá cao, và mình cũng nghĩ là điểm ACT hay SAT không quyết định toàn bộ con người hay học lực của một học sinh nào. Những nhà tuyển sinh, ngoài điểm số thì họ còn nhìn vào con người, tính cách, những hoạt động mà học sinh đã tham gia; đánh giá của giáo viên, bạn bè về người đó. Họ nhìn vào những kỹ năng như lãnh đạo, sắp xếp hoạt động, hay tự lập của học sinh nhiều hơn. Tuy nhiên, lợi thế về điểm ACT, SAT và điểm trong trường có thể cho bạn cơ hội có học bổng tốt hơn”, Ngọc chia sẻ.
Video đang HOT
Cô cũng nhấn mạnh thêm: “Có thể bạn không có điểm số cao ngất ngưởng, nhưng bạn có một tính cách, hay giá trị nào đó mà nhà trường đang tìm kiếm cho môi trường của họ thì bạn sẽ có cơ hội. Nên quan trọng nhất là bạn phải là chính bản thân mình, và tham gia những hoạt động giúp tăng giá trị con người và làm nổi bật tính cách của bạn”.
Ngọc cho rằng để cấp học bổng các trường ĐH Mỹ rất chú trọng vào tính cách, con người, nên bài luận sẽ góp phần quan trọng trong việc họ đưa ra quyết định. “Trong bài luận, chỉ đơn giản là cho họ biết bạn là ai. Qua bài luận, nhà trường có thể biết tính cách của bạn, nên bạn cần cho họ thấy những gì chân thật và giá trị nhất về bạn trong bài luận khoảng 650 chữ này. Hãy cho họ thấy cách bạn đối xử với gia đình, bạn bè, hay thiên nhiên. Những gì bạn nghĩ là tầm thường nhất, có khi lại là thứ có giá trị nhất ở bạn”, Ngọc bật mí.
Harvard Yenching Institute có thuộc ĐH Harvard?
TS Trần Vinh Dự, người từng theo học và tốt nghiệp ĐH Texas ở Austin (Mỹ), giải thích khái niệm học giả Harvard Yenching Institute và nó có liên quan gì Trung Quốc không.
Ngày 8/4, khái niệm học giả Harvard Yenching Institute (HYI) trở thành chủ đề nóng trên mạng xã hội, cũng như trong giới học thuật. Nó là gì? "Visiting scholar" (học giả) khác "post-doc" (nghiên cứu sau tiến sĩ) ở chỗ nào? Chương trình này có liên quan Trung Quốc không?
TS Trần Vinh Dự (thứ hai từ trái sang) theo học chương trình tiến sĩ tại UT-Austin theo học bổng do HYI cấp. Ảnh: T.V.D.
Từng du học bằng học bổng của HYI
Cách đây 21 năm, tôi là giảng viên khoa Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội. Thời điểm này, tôi đã thi xong TOEFL (607 điểm) và GRE (2040 điểm), chuẩn bị tìm trường nộp hồ sơ học tiến sĩ (Ph.D.) ở Mỹ.
Những người từng có ý định du học đều biết chi phí đắt thế nào. Lúc đó, tôi chẳng có xu nào cả. Việc xin đi du học hoàn toàn dựa vào kiếm học bổng.
Kiếm học bổng chủ yếu có hai nguồn: Thứ nhất, xin đi làm ở trường dưới dạng trợ giảng hoặc trợ lý nghiên cứu; thứ hai, xin chỗ nào họ cho mình tiền.
Lúc đó, kiếm mãi không ra lựa chọn số hai, tôi chỉ dựa vào lựa chọn thứ nhất, xin làm việc trực tiếp những trường mình nộp hồ sơ. Dĩ nhiên, tôi hiểu xin như thế, cơ hội được các trường này nhận sẽ ít hơn. Nếu có chỗ khác cho tiền sẵn, việc xin học dễ hơn.
Một hôm đi làm, tôi thấy thông báo dán trên tường về học bổng đào tạo sau đại học của Harvard Yenching Institute. Thấy có học bổng, tôi nghiên cứu HYI là gì để nộp đơn.
Mấy tháng sau khi nộp đơn, tôi nhận được thông tin từ HYI, thông báo thời gian lên văn phòng ĐH Quốc gia Hà Nội, gặp đại diện của HYI phỏng vấn trực tiếp.
Lúc đó, tôi rất hồi hộp. May mắn, tôi có dịp gặp GS Ngô Vĩnh Long hàng tuần, được ông dạy bảo nhiều, bao gồm cả chuẩn bị về mặt tinh thần cho các cuộc phỏng vấn kiểu này.
Người phỏng vấn tôi là giám đốc chương trình học bổng của HYI, một người Mỹ da trắng đứng tuổi. Ông ấy phỏng vấn tôi trong khoảng một giờ. Câu chuyện khá lôi cuốn nên tôi không có cảm giác đó là một cuộc phỏng vấn. Hết giờ, ông bắt tay tôi và nói sẽ có kết luận sau mấy tháng.
Khoảng đầu tháng 4/2001, tôi nhận được thư của 5 trong số 6 trường tôi nộp hồ sơ. Bốn trường đồng ý cho học và cho làm thêm để có tiền. Một trường (ĐH Rochester) từ chối. Tôi không hào hứng lắm với 4 trường đồng ý nhận mình. ĐH Texas ở Austin (UT-Austin) chưa trả lời mà thời gian khá trễ, tôi nghĩ khả năng trượt lớn.
Đúng lúc đó, tôi lại nhận được thư chúc mừng từ HYI. Từ chỗ có HYI cấp học bổng, qua sự hỗ trợ của TS Nguyễn Quốc Toàn (lúc đó đang là nghiên cứu sinh ở ĐH New York), tôi liên hệ với UT-Austin một cách đầy tự tin. Mấy ngày sau, trường gửi thư đồng ý nhận tôi vào học. Tháng 8/2001, tôi lên đường sang Mỹ du học.
Viện Harvard Yenching nằm trong khuôn viên ĐH Harvard và 3 trong số 9 thành viên hội đồng quản trị của viện là đại diện từ Harvard. Ảnh: The Harvard Gazette.
HYI là gì?
Harvard Yenching Institute - Viện Harvard Yenching - có khuôn viên tọa lạc trong ĐH Harvard. Giám đốc đương nhiệm là GS Elizabeth J. Perry, GS ngành Chính trị của ĐH Harvard.
Hội đồng Quản trị của HYI gồm 9 thành viên, với 3 người đại diện ĐH Harvard, 3 người đại diện của Hội đồng vì Giáo dục sau phổ thông Công Giáo tại châu Á (một tổ chức phi chính phủ ở New York) và 3 thành viên độc lập có hiểu biết sâu rộng về châu Á.
Harvard Yenching không phải là một đơn vị do ĐH Harvard sở hữu. HYI có thể hiểu là một tổ chức thiện nguyện hoạt động độc lập, có ngân sách độc lập. Nhưng HYI là một phần không tách rời của cộng đồng Harvard. Hiểu nôm na, HYI là một dự án độc lập mà Harvard có tham gia với tư cách thành viên sáng lập.
Vậy HYI làm gì? HYI không phải là một khoa hay là một viện đào tạo. HYI không có cấp bằng. Trong lịch sử, HYI làm nhiều việc như hỗ trợ thành lập Khoa nghiên cứu về ngôn ngữ và văn minh Á Đông của ĐH Harvard, thư viện Harvard Yenching của ĐH Harvard, tạp chí nghiên cứu Harvard Journal of Asiatic Studies... hỗ trợ trực tiếp cho nhiều trường ĐH ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuy nhiên, từ những năm 50 của thế kỷ XX trở lại đây, HYI tập trung chính vào việc tài trợ học bổng cho các nghiên cứu sinh tiến sĩ và các giáo viên trẻ thuộc các trường đại học hàng đầu ở Đông và Đông Nam Á ra nước ngoài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn.
Tới nay, hơn 1.200 giảng viên và hơn 600 nghiên cứu sinh đã được HYI hỗ trợ, trong đó, 400 tiến sĩ và thạc sĩ đã tốt nghiệp dưới sự tài trợ của HYI.
Tôi không biết chính xác có bao nhiêu trong số 400 này là tiến sĩ. Nhưng tôi là một người trong số đó. Một sản phẩm được đào tạo ra dưới sự chi trả của HYI. Không có HYI thì không có tôi bây giờ.
Cần nói rõ, với các chương trình tài trợ này, HYI không đào tạo mà là đơn vị cấp học bổng/ngân sách. Những người nhận tài trợ sẽ học tập và làm việc tại các cơ sở đào tạo khác nhau.
Ví dụ, tôi học và tốt nghiệp từ UT-Austin, nhưng dưới sự tài trợ của HYI. Vì thế, việc một học giả đi theo diện visting scholar do HYI tài trợ và làm việc trong thời gian này ở ĐH Harvard ghi vào hồ sơ là visiting scholar của Harvard là chuyện bình thường.
Website của HYI cũng ghi rất rõ "chương trình này trao cơ hội cho các giảng viên trẻ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có 10 tháng nghiên cứu độc lập tại ĐH Harvard".
HYI lấy tiền đâu ra, có liên quan Trung Quốc không?
HYI là một quỹ tín thác công ích được thành lập từ năm 1928 với nguồn tài trợ thuần túy từ tài sản của một người đã mất năm 1914 - nhà khoa học Charles Martin Hall.
Ông Hall là nhà khoa học, nhà sáng chế, đồng thời là "đại gia" thời đó với tài sản có được nhờ thành lập công ty luyện kim Alcoa. Công ty này hiện giờ vẫn niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ.
Ông Hall mất lúc còn rất trẻ (51 tuổi) và không có vợ con thừa kế. Tài sản của ông để lại theo di chúc được dùng cho mục đích thiện nguyện. Harvard Yenching được thành lập dựa hoàn toàn trên nguồn ngân sách đến từ khối tài sản này.
Nhưng sao lại là châu Á? Đặc biệt là có chữ Yên Kinh (Yenching) nghe có vẻ liên quan Trung Quốc? Ông Charles M. Hall dĩ nhiên không phải người châu Á, càng không phải người Trung Quốc và cũng không làm ăn gì ở Trung Quốc. Viện Harvard Yenching được thành lập sau khi ông qua đời 14 năm.
Chữ Yenching đến từ một người da trắng khác - nhà truyền giáo, nhà giáo dục, TS John Leighton Stuart (1876-1962). Ông Stuart dành phần lớn phần đời ở Trung Quốc hoạt động truyền đạo Công giáo và làm giáo dục. Có thời, ông còn là Đại sứ của Mỹ tại Trung Quốc (1946 đến giai đoạn nội chiến giữa ĐCS và Quốc dân đảng). Stuart được coi là tượng đài trong quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn lịch sử đó.
Ông cũng là người sáng lập ĐH Yên Kinh (Yenching University), và là chất xúc tác để hình thành Harvard Yenching Institute tại ĐH Harvard năm 1928. Chính HYI trong giai đoạn đầu cũng tham gia hỗ trợ trực tiếp ĐH Yên Kinh và 5 trường đại học khác ở Trung Quốc và một trường ở Ấn Độ.
Như vậy, dù có chữ Yên Kinh và có nguồn gốc lịch sử liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung từ thời đầu thế kỷ XX, HYI hoàn toàn là một quỹ tín thác của Mỹ, hoạt động hoàn toàn từ ngân sách đóng góp dựa trên tài sản của nhà khoa học Charles Martin Hall để lại.
Tôn chỉ mà HYI theo đó vận hành là nghiên cứu và hỗ trợ nghiên cứu, xuất bản về văn hóa Trung Hoa, châu Á đại lục, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Balkan ở châu Âu bằng cách sáng lập, phát triển, hỗ trợ, duy trì các tổ chức giáo dục hoặc hợp tác và liên kết với các tổ chức giáo dục khác.
Nói cách khác, HYI không hoạt động bằng tiền của Trung Quốc và cũng không hoạt động theo nghị trình của Trung Quốc hay nói cách khác không "thân Trung Quốc" như một số người nhầm tưởng
Visiting scholars khác với postdoc hay research fellows chỗ nào?
Mọi người cũng tranh luận quanh các khái niệm như visiting scholars, postdoc và research fellows. Cái nào hơn, khác nhau chỗ nào, có sai không khi dùng từ này thay từ kia.
Câu trả lời ngắn gọn là visiting scholars, postdocs hay research fellows chẳng khác gì nhau ngoài vấn đề đối tượng và thời gian. Cả 3 dạng này đều theo kiểu một đơn vị đứng ra cấp ngân quỹ để một cá nhân qua trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu khác để nghiên cứu hoặc làm việc trong thời gian nhất định.
Lưu ý, cả 3 đều không phải chương trình học, và vì thế, đều không cấp bằng. Các học giả đi theo các chương trình này đều có thời gian tự do để nghiên cứu, phối hợp nghiên cứu, hoàn thành các công trình nghiên cứu đang phát triển của mình, tham dự các hội thảo hội nghị khoa học, thiết lập mạng lưới quan hệ với các nhà khoa học khác...
Khác biệt cơ bản giữa các chương trình này là đối tượng và thời gian của chương trình. Thí dụ, postdoc (nghiên cứu sau tiến sĩ) dành cho những người đã tốt nghiệp tiến sĩ trong một thời gian nhất định (thường là dưới 5 năm sau khi tốt nghiệp) và các chương trình postdoc thường kéo dài 2 năm.
Visiting scholars hay research fellows áp dụng cho các học giả theo nghĩa rộng hơn. Chương trình thường ngắn hơn, ví dụ 10 tháng theo chương trình của HYI. Research fellowships có thể rất ngắn (6 tháng) hoặc dài hơn. Ví dụ, Humboldt research fellowship cho từ 6 tháng đến 2 năm
Nói nôm na, những người đi theo các chương trình này thường vì thiếu một số thứ gì đó. Thí dụ, họ thiếu cơ hội cọ xát, làm việc với các chuyên gia hàng đầu trong ngành nghiên cứu của mình, thiếu thiết bị, máy móc thí nghiệm hoặc thiếu tiền để làm nghiên cứu.
Thời mới tốt nghiệp Ph.D. từ UT-Austin, tôi cũng được trao cơ hội làm postdoc 2 năm ở ĐH Southern California (USC - trường top đầu nước Mỹ).
Tuy nhiên, lương làm postdoc thấp. Hơn nữa, sau đó, tôi có công việc ngay nên không có lý do gì ở đó thêm 2 năm nên không nhận.
TS Trần Vinh Dự nhận bằng cử nhân Kinh tế & Toán học từ ĐH Quốc gia Hà Nội. Ông học tiến sĩ tại ĐH Texas ở Austin (Mỹ).
Ông từng là Chủ tịch trường CĐ Nghề Việt Mỹ (VATC), Chủ tịch Trung tâm Quốc tế của ĐH Broward College (Mỹ) tại Việt Nam.
Hiện tại, TS Trần Vinh Dự là Phó tổng giám đốc, lãnh đạo dịch vụ Chiến lược và Giao dịch Tài chính (SaT), Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam.
Khát vọng sống của cô bé mồ côi bị bệnh hở van tim 3 lá và bệnh dạ dày Ngô Thị Hà Linh (SN 2009) ở xã Đồng Thắng, huyện Triệu Sơn từ khi sinh ra đã không biết mặt cha. Điểm tựa duy nhất để em sống, học tập, chiến đấu với căn bệnh hở van tim 3 lá và bệnh đau dạ dày là mẹ. Thế nhưng mẹ cũng bỏ em đi vì căn bệnh ung thư quái ác. Trước...