Chuẩn hóa năng lực cho giảng viên các trường sư phạm
Thực tế nhân lực của ngành sư phạm cũng như tỉ lệ giáo viên dôi dư quá nhiều đã đặt ra cho ngành nhiệm vụ cấp bách, đó là tái cấu trúc lại hệ thống các trường sư phạm; nâng cao chất lượng giảng viên tại các trường sư phạm. Vậy trong lộ trình hội nhập, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên sắp tới, mô hình và giải pháp nào là phù hợp nhất?
Sinh viên sư phạm thực tập dạy học
Chất lượng giảng viên chưa tương xứng quy mô đội ngũ
Đây là thực tế mà bà Nguyễn Thị Kim Phụng – Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD&ĐT) thẳng thắn nhìn nhận khi số lượng giảng viên năm 2016-2017 dù có tăng so với năm học 2015-2016 nhưng tỉ lệ có chức danh GS, PGS và trình độ TS trong toàn hệ thống vẫn ở mức thấp. Đặc biệt là tỉ lệ giảng viên có trình độ TS ở các trường Cao đẳng sư phạm còn thấp (chiếm 3,4%).
Nguyên nhân trên, theo bà Phụng là do công tác bồi dưỡng, quy hoạch và phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý chưa được quan tâm đồng đều trong toàn hệ thống.
“Chất lượng đội ngũ giảng viên các trường vẫn còn là dấu hỏi lớn khi nhiều cán bộ giảng viên không tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH), ít có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế… Thống kê cho thấy rõ, số lượng giảng viên cơ hữu của các trường ngoài công lập còn thiếu khá lớn – chiếm đến 20% (15.158 người) trong tổng số giảng viên toàn quốc, chính điều này chưa tạo niềm tin về chất lượng đào tạo của một số trường ngoài công cập trong hệ thống”- Bà Phụng . Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia giáo dục, Việt Nam không đứng ngoài quy luật chung so với các nước khi bắt đầu tiệm cận với nền giáo dục chất lượng cao. Tại Hội thảo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên phổ thông và giảng viên trong các trường sư phạm mới đây tại TPHCM cho thấy:
Sự thay đổi nhanh chóng trong công nghệ và kinh tế liên tục tạo ra nhiều ngành nghề mới và cơ hội thu nhập cao cho những người giỏi, nhưng với nghề giáo viên dù ngay cả khi lương có cao hơn mặt bằng xã hội thì vẫn không thể so được với thu nhập của giới lao động kỹ năng cao trong các doanh nghiệp.
Cũng giống các nước, ưu điểm đặc biệt của nghề giáo tại Việt Nam là tính ổn định, thậm chí, tại nhiều nước còn có chế độ biên chế suốt đời cho giáo viên phổ thông. Tuy nhiên, theo TS Phạm Thị Ly – Trung tâm nghiên cứu và đánh giá GDĐH của Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, chính hệ thống biên chế cũng đang bộc lộ những hạn chế của nó (sự trì trệ).
Điều này khiến địa vị của nghề giáo ngày càng giảm và ngành sư phạm ngày càng khó tuyển người giỏi, không tạo được động lực để các giảng viên làm NCKH.
Tính đến hết năm học 2016-2017, hệ thống ĐH-CĐ giáo dục Việt Nam có 235 trường đại học, học viện. Trong đó có 14 trường đại học sư phạm với tổng số 4.615 giảng viên chịu trách nhiệm đào tạo 151.208 sinh viên.
Cao đẳng có 57 trường với quy mô giảng viên là 3.388 giảng viên đào tạo khoảng 47.800 sinh viên. Tuy nhiên, đáng chú ý là tỉ lệ giảng viên có trình độ TS chỉ có 115 người và 2.187 người có trình độ thạc sĩ. Điều đó phần nào cho thấy chất lượng giảng viên sư phạm của chúng ta chưa cao.
PGS.TS Võ Văn Thắng – Hiệu trưởng Trường ĐH An Giang cho rằng: Khiếm khuyết lớn nhất mà các trường sư phạm cần phải ngay lập tức xóa bỏ trong quá trình đào tạo giáo viên (phương pháp sư phạm của đội ngũ giảng viên) chính là phát triển kỹ năng nghề cho SV. Bên cạnh đó, việc thiếu chuẩn năng lực nghề nghiệp giảng viên cũng ít nhiều tạo khoảng hở trong việc nâng chất và chuẩn hóa trình độ đội ngũ giảng viên tại các trường sư phạm.
Giải pháp và mô hình nào?
Video đang HOT
Đội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công đổi mới giáo dục. Do vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông, đáp ứng yêu cầu đổi mới thì trước mắt đội ngũ giảng viên tại các trường sư phạm cần phải sớm được chuẩn hóa.
Để làm được điều đó, việc quy hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm, xóa bỏ các trường cao đẳng, tính toán lại quy mô đào tạo là những việc phải nhanh chóng thực hiện. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ đã nhiều lần khẳng định sẽ sớm thực hiện việc quy hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm trong thời gian tới.
Tuy vậy, theo TS Phạm Thị Ly – việc đó không khó, cái khó nhất chính là việc tái định hình nghề sư phạm nhằm đáp ứng được yêu cầu của cải cách giáo dục phổ thông. Bởi theo bà, chính những đòi hỏi của nền kinh tế, của sự phát triển xã hội cũng như nhu cầu ngày càng cao của người dân trong một môi trường toàn cầu buộc ngành sư phạm phải thay đổi. Và theo bà, để làm được điều này thì ngành cần phải thay đổi mô hình và triết lý đào tạo.
Cô giáo trẻ mới vào nghề ở một trường mầm non
TS Phạm Thị Ly cho biết: Nghị quyết 29-NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có một điểm quan trọng nói đến tuyển sinh sư phạm: “Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm”. Tuy nhiên, trên thực tế, cần có chính sách hay sự khích lệ tài chính cụ thể mới triển khai được phương hướng đó. TS Ly phân tích:
Chính sách cần được thiết kế dựa trên việc tạo ra động lực, đặc biệt là động lực thị trường. Trong đó, trọng tâm cần hướng cải cách tới mục tiêu cá nhân hóa quá trình dạy và học, nhằm vào phát triển tiềm năng của từng học sinh và nhấn mạnh vào các giá trị sống cũng như những kỹ năng cốt lõi, thay vì chỉ tập trung vào kiến thức thi cử.
“Với xuất phát điểm và mục tiêu như thế, có lẽ các trường sư phạm không chỉ cần quy hoạch hay tái cấu trúc, mà phải thay đổi hẳn mô hình đào tạo. Tuy vậy, việc thay đổi mô hình không quan trọng bằng việc thay đổi triết lý đào tạo. Các trường sư phạm cần điều chỉnh mục tiêu không chỉ là để sinh viên có thể sẵn sàng cho một nghề nghiệp khác mà còn là tạo nên một nền tảng tri thức rộng, đó chính là điều chúng ta cần ở người giáo viên tương lai”- TS Ly đề xuất.
Bàn về mô hình và phương thức cho công tác chuẩn hóa đội ngũ giảng viên các trường sư phạm, PGS.TS Nguyễn Kim Hồng- nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM cho rằng: Với thực tế chất lượng đào tạo và đội ngũ giảng viên sư phạm chúng ta đang có, để nâng cao và chuẩn hóa đội ngũ, có thể áp dụng kinh nghiệm của một số nước Đông Á và phương Tây trong việc thiết kế đào tạo sư phạm linh hoạt hơn, như:
Sinh viên có thể thi vào đại học và lấy bằng cử nhân giáo dục hoặc một lĩnh vực chuyên ngành khác, rồi sau đó học một khóa cao học để lấy bằng thạc sĩ giáo dục.
“Mô hình này có ưu điểm là tạo ra con đường sự nghiệp linh hoạt cho sinh viên. Học xong họ có thể đi dạy, hoặc làm việc trong những lĩnh vực khác nhau, tùy theo nhu cầu của thị trường và năng lực của họ”- PGS.TS Nguyễn Kim Hồng nói.
Là nhà nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề giáo dục, TS Phạm Thị Lan Phượng – Viện nghiên cứu Giáo dục Trường ĐH Sư phạm TPHCM cho biết, trong nhiều năm theo dõi và nghiên cứu nền giáo dục 3 nước Mỹ, Pháp, Nhật, bà nhận thấy ở 3 quốc gia trên việc đào tạo giáo viên, nâng chất giảng viên các trường sư phạm đều theo mô hình đào tạo sư phạm nối tiếp.
Tức là khi học xong kiến thức khoa học, sinh viên sẽ tiếp tục học về giáo dục – sư phạm nếu muốn trở thành giáo viên với “tấm giấy” thông hành sau khi hành nghề là chuẩn trình độ chuyên môn về sư phạm.
Vì vậy, để có một đội ngũ giáo viên nói chung, giảng viên sư phạm nói riêng chất lượng, theo bà, Việt Nam phải thực hiện được yếu tố cơ bản và hàng đầu là nâng cao vị thế nghề giáo (ở các nước trên, giáo viên rất được trọng vọng và mức lương rất cao).
“Qua nghiên cứu các nước trên, cho thấy, đối với bậc học càng cao thì yêu cầu về kiến thức khoa học ở giáo viên càng lớn. Do vậy, các trường đại học sư phạm ngoài việc sớm xây dựng chuẩn năng lực giảng viên thì cần phải đảm bảo chất lượng tuyển sinh và chuẩn năng lực khoa học giáo dục- sư phạm của sinh viên. Song song đó, việc mở các khóa bồi dưỡng đa dạng theo nhu cầu của giảng viên đương nhiệm cần được xem là hướng đi quan trọng trong các trường sư phạm trong thời gian tới”- TS Phượng .
Theo Giaoducthoidai.vn
Hội đồng trường đại học: Làm sao để không quá tải?
Đại diện nhiều trường đại học cho rằng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng để hội đồng trường không rơi vào tình trạng quá tải cả về quyền là lượng công việc.
Giáo sư, Tiến sĩ Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật TPHCM Vấn đề độ tuổi, thời gian công tác của người đứng đầu hội đồng trường cũng khiến nhiều người quan tâm.
Trong dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi mà Bộ Giáo dục - Đào tạo đang lấy ý kiến rộng rãi có nhiều nội dung mới đề cập đến việc nâng cao vai trò của hội đồng trường trong trường đại học công lập.
Theo đó, bên cạnh việc thay đổi thành phần tổ chức, chức năng, phạm vi hoạt động và quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng trường dự kiến cũng có nhiều thay đổi so với trước kia.
Đại diện nhiều trường đại học cho rằng: Cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng để hội đồng trường không rơi vào tình trạng quá tải về cả quyền lực lẫn số lượng công việc phải gánh vác.
Là tổ chức quản trị đại diện cho các bên có lợi ích liên quan và đại diện quyền sở hữu nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học, vì thế, trong dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi, quyền hạn và nhiệm vụ của hội đồng trường được quy định rất cụ thể.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục - Đào tạo.Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục - Đào tạo, với các quyền được phân, vai trò của hội đồng trường đã được nâng cao rõ rệt theo tiêu chí tiệm cận các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
"Hội đồng trường theo dự luật lần này phải là một hội đồng có thực quyền. Hội đồng trường phải quyết định từ việc định hướng phát triển của trường là đại học nghiên cứu hay ứng dụng đến phát triển về các vấn đề chuyên môn, ngành học, đầu tư về cơ sở vật chất, giảng viên. Hội đồng trường cũng cần có quyền quyết định về cơ chế thu chi tài chính của trường như thế nào rồi ban hành quy chế tổ chức hoạt động của trường ra sao...", bà Phụng cho hay.
Để hội đồng trường đáp ứng được các vai trò quan trọng kể trên, dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi đã bổ sung nhiều nội dung liên quan đến cơ cấu của tổ chức này. Trong đó có việc, hội đồng trường được đề nghị phải có tối thiểu 30% thành viên bên ngoài trường nhưng quan tâm hoặc có quyền và lợi ích liên quan đến sự phát triển của trường.
Đó là đại diện của cộng đồng xã hội như nhà lãnh đạo, nhà quản lý giáo dục, nhà khoa học, đại diện cựu sinh viên hoặc đại diện của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục - Đào tạo, tỷ lệ này là 20%. Ở các nước phát triển, họ áp dụng tỷ lệ này lên đến 50%-60% với mong muốn tạo môi trường hoạt động minh bạch nhất trong trường đại học.
Đánh giá cao những thay đổi lần này liên quan đến việc quy định chức năng và quyền hạn của hội đồng trường, nhưng đại diện nhiều trường đại học tại TP.HCM tỏ ra e ngại khi nghĩ đến những vấn đề phát sinh do nhập nhằng quyền hạn giữa ban giám hiệu với hội đồng trường, giữa hiệu trưởng và chủ tịch hội đồng.
Không ít người cho rằng cần có thêm các điều luật cụ thể để hội đồng trường căn cứ vào đó cộng với điều kiện cụ thể của trường và đưa ra định hướng.
Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM, tốt nhất là phải tách bạch quyền hạn và trách nhiệm của hội đồng trường với ban giám hiệu thông qua việc quy định thành phần cấu tạo tổ chức này.
"Tuy không phải là bộ chủ quản nhỏ nhưng hội đồng trường cũng có đối trọng với việc điều hành nhà trường của ban giám hiệu, đặc biệt là hiệu trưởng. Do đó tôi nghĩ rằng hiệu trưởng không nên là thành viên trong hội đồng trường", ông Dũng nêu quan điểm.
Giáo sư, Tiến sĩ Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật TP.HCM tỏ ra băn khoăn vì chưa tìm thấy hướng giải quyết đối với sự chồng chéo đang tồn tại trong quy định độ tuổi đối với chức danh chủ tịch hội đồng trường đại học.
"Về phía Luật Giáo dục Đại học, dự thảo lần này đã tháo gỡ vấn đề bằng cách không quy định độ tuổi của chủ tịch hội đồng trường đại học. Thế nhưng, về quy định của Đảng đối với độ tuổi để một cá nhân ứng cử vào các tổ chức cấp ủy có thay đổi được không?", GS-TS Mai Hồng Quỳ nói.
Theo phân tích của Giáo sư Mai Hồng Quỳ, nếu Bộ Giáo dục - Đào tạo không sớm đề xuất hướng tháo gỡ vấn đề này thì rất dễ xảy ra tình trạng người đạt chuẩn theo quy định này lại vướng vào quy định khác. Vì Nghị quyết 19 quy định chủ tịch hội đồng trường đại học phải là bí thư đảng ủy. Trong khi đó, nhân sự để bầu bí thư đảng ủy vẫn theo quy định của đảng về độ tuổi, tức là không quá 55 tuổi với nữ và 60 tuổi với nam.
Làm sao để cân bằng tốt giữa quyền hạn và trách nhiệm của hội đồng trường là yêu cầu được các trường đặt ra đối với những thay đổi lần này.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tất Phát, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo, nguyên Giám đốc Đại học quốc gia TP.HCM cho rằng, giao nhiều quyền và trách nhiệm cho hội đồng một trường đại học là đúng nhưng phải tính toán kỹ, bằng không sẽ kém hiệu quả.
"Tôi thấy lần này chúng ta giao cho hội đồng trường đại học quá nhiều nhiệm vụ như: giám sát, kiểm soát, báo cáo kết quả trước hội nghị của trường, 3 tháng họp một lần... Tôi sợ rằng thời gian vật chất của các hội đồng trường không đủ làm nổi các nhiệm vụ này. Chúng ta muốn tăng cường vai trò của hội đồng trường lên nhưng đôi khi lại làm hạn chế quyền tự chủ của các trường", ông Phát phân tích.
Các trường đại học đang mong chờ bước thay đổi ngoạn mục đối với thiết chế quyền lực mang tên hội đồng trường. Không cần quá nhiều đổi mới mang tính hình thức, áp dụng rập khuôn từ các quốc gia tiên tiến, điều mỗi trường đại học cần là hội đồng trường đủ nhạy bén để đưa ra những chính sách, chiến lược hoạt động hiệu quả, đủ uy tín để tập hợp các nguồn lực và đủ minh bạch để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là người học
Theo VOV
Không phân biệt bằng chính quy và tại chức: Khó khả thi Theo PGS Trần Văn Tớp, loại hình đào tạo chính quy và tại chức hiện vẫn có khoảng cách lớn do cách thức tuyển sinh, đào tạo và quan niệm của xã hội. ảnh minh họa Góp ý về luật Giáo dục Đại học Việt Nam của Hội nghị tham vấn chuyên gia về việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, PGS...