Câu chuyện trường Đại học Tôn Đức Thắng khiến không ít trường tự chủ e ngại
Mục tiêu của tự chủ đại học là để các trường trở thành cái nôi của sáng tạo, tạo ra giá trị xã hội. Muốn vậy phải có cơ chế bảo vệ người tiên phong đổi mới.
Tự chủ giáo dục đại học đã được thực hiện từ năm 2015, sau khi có Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ; đặc biệt từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật 34) và Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật 34.
Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, tạo nên sự bứt phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Song, thực tế quá trình triển khai vẫn còn nhiều rào cản vướng mắc.
Giáo sư Hoàng Văn Cường cho biết, mục tiêu cuối cùng của tự chủ đại học là đưa các trường trở thành cái nôi của sáng tạo, nghiên cứu. (Ảnh: NVCC)
Xoay quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư – Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Thưa Giáo sư, tự chủ đại học đã cho thấy những tín hiệu tích cực, mở rộng cơ chế để các trường đại học phát triển, nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, khi bước vào lộ trình tự chủ, các trường cũng phải đối mặt với rất nhiều áp lực. Thầy có thể chia sẻ về những áp lực mà các trường đại học tự chủ phải đối mặt hiện nay?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Các trường đại học trước đây đều được nhà nước cấp ngân sách, nhưng với những trường đại học thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 77/NQ-CP thì họ phải tự lo toàn bộ phần kinh phí hoạt động và không được cấp ngân sách nữa. Điều này buộc các trường phải tìm nhiều giải pháp để có nguồn thu.
Các trường tự chủ phải tự thu, tự lo chi phí, buộc học phí phải tăng lên, nhưng việc tăng học phí lại gặp phải áp lực xã hội vô cùng lớn. Xã hội không cần biết trường có tự chủ hay không, người ta chỉ nghĩ rằng đây là trường đại học công lập của Nhà nước nên tăng học phí thường gặp phải phản ứng của xã hội.
Trong khi các trường tư thục, các cơ sở đào tạo có yếu tố nước ngoài thu mức học phí thế nào cũng không gặp phải rào cản tâm lý xã hội. Các trường công lập, dù là tự chủ đã bị cắt chi phí chi thường xuyên và chi đầu tư, chỉ cần tăng học phí thêm 1 triệu đồng cũng là cả một vấn đề.
Vấn đề nổi cộm của tự chủ đại học hiện nay là cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý chưa đồng bộ, nhất quán. Theo ông, điều này đang gây khó khăn như thế nào cho các trường đại học khi thực hiện tự chủ?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Luật pháp đã quy định, tự chủ là quyền tự quyết gắn với tự chịu trách nhiệm, giải trình. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý chưa rõ ràng nên khi trường tự quyết lại dễ dẫn tới vi phạm luật.
Đây là điều mâu thuẫn, bất cập lớn nhất hiện nay. Những người đứng đầu cơ sở giáo dục công lập tự chủ vẫn không thể tự quyết vấn đề của mình khi phải tuân theo nhiều văn bản pháp lý chồng chéo, chịu sự kiểm soát của nhiều cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tế vấn đề này đã từng diễn ra, Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một trong những điển hình về tự chủ. Theo tinh thần tự chủ, tự quyết nên không tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn chưa kịp sửa đổi theo Nghị quyết 19-NQ/TW. Câu chuyện đó trở thành bài học khiến các trường đại học khác bước vào tự chủ với tâm lý lo sợ, e ngại, các trường không dám làm, không dám đổi mới, và như thế thì không còn tự chủ.
Video đang HOT
Ví dụ, luật pháp đã khẳng định các trường được tự chủ tự quyết định về tài chính và đầu tư mua sắm tài sản. Nhưng khi đầu tư mua sắm bằng nguồn tiền tự thu của trường thì vẫn phải tuân thủ theo quy định Đấu thầu như sử dụng tiền từ ngân sách. Ngay cả khi biết rằng nếu phải tuân thủ qui định đấu thầu, vừa mất nhiều thời gian, vừa phải qua nhiều khâu trung gian tăng chi phí và có thể không mua được đúng những sản phẩm trường muốn mua, thì các trường cũng không thể bỏ qua quy định này để tổ chức mua trực tiếp được sản phẩm ưng ý hơn, thậm chi chi phí rẻ hơn.
Về mặt tài sản,nếu trường muốn tận dụng lúc thời gian chưa dùng hết để cho thuê một tài sản nào đó có khi giá thuê chỉ vài trăm ngàn (ví dụ thuê phòng học một vài buổi) thì theo quy định vẫn phải làm đề án báo cáo cơ quan chủ quản phê duyệt, thuê cơ quan đấu giá để xác định giá thuê và công bố giá thuê trên cổng thông tin quốc gia. Quá trình phức tạp đó làm cho các trường chấp nhận vi phạm nếu mạnh dạn muốn tăng nguồn thu cho trường hoặc bỏ phí không cần tận dụng để lãng phí tài sản.
Luật qui định các trường được tự chủ về tổ chức và nhân sự. Nhưng thực tế, khi trường muốn tuyển dụng, bổ nhiệm cá nhân nào vẫn phải chịu sự chi phối về Luật Viên chức và các quy định của Chính phủ về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Phải tuân thủ quy định này, các trường khó tuyển dụng được những nhân sự xuất sắc vì phải yêu cầu những người giỏi chờ đợi các kỳ tuyển dụng, phải tuân thủ các bước quy trình không thực chất.
Ngoài 3 trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được Chính phủ cho phép thí điểm ký hợp đồng lao động với giảng viên là người nước ngoài, còn lại, các trường khác dù có tự chủ thì cũng chỉ được ký hợp đồng với giảng viên nước ngoài khi đã được cơ quan quản lý cấp phép.
Những câu chuyện trên chính là minh chứng cho thấy, khi cơ chế còn chưa rõ ràng, thậm chí hệ thống văn bản pháp lý còn chồng chéo và tồn tại nhiều bất cập thì các trường đại học sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khan, chưa thể thực hiện được các quyền tự chủ như mong muốn.
Thưa Giáo sư, nói đến tự chủ là nói đến đổi mới, sáng tạo, phát triển. Vậy, khi hành lang pháp lý chưa đồng bộ, chưa nhất quán thì các trường đại học làm sao để có thể tự quyết và tạo được sự bứt phá, sự phát triển mạnh mẽ cho giáo dục đại học?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Trường đại học là cái nôi của nghiên cứu khoa học, mục tiêu cốt lõi của tự chủ đại học là tạo môi trường tự do không ràng buộc, không giới hạn để khuyến khích sáng tạo ra tri thức mới, giá trị mới, những sáng tạo xã hội. Và để thực hiện được mục tiêu đó, các trường phải thực sự được tự chủ, tự do, được tự quyết những vấn đề, hoạt động của mình.
Sáng tạo có nghĩa là họ không đi theo lối cũ, không theo cách làm cũ, không theo khuôn khổ đã vạch ra, họ có thể quyết định triển khai thực hiện một cách làm chưa có trong tiền lệ. Tất nhiên đó phải là những việc làm vì lợi ích của người học, vì sự phát triển của của cơ sở giáo dục đại học đó và không gây phương hại đến tổ chức, cá nhân nào.
Những quy định cứng nhắc bắt buộc người quản lý phải tuân thủ chấp hành như hiện nay chính là hành lang pháp lý vẫn đang “trói buộc” các trường không được quyền sáng tạo, không có cơ hội để bứt phá. Nếu tự quyết để rồi vướng vào vi phạm pháp luật thì chẳng ai còn dám đổi mới, sáng tạo. Cứ như vậy thì biết đến bao giờ các trường đại học có thể trở thành cái nôi của sáng tạo xã hội và tạo ra những giá trị mới?
Và chính những bất cập trong hành lang pháp lý vẫn chưa cởi trói cho tự chủ đại học, nó đang triệt tiêu hết những ý tưởng đổi mới, sáng tạo, bởi khi người ta có ý tưởng nhưng gặp phải tâm lý e ngại, lo sợ không dám thực hiện, triển khai thì tất cả những ý tưởng sáng tạo cũng triệt tiêu.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải có cơ chế bảo vệ những người dám tiên phong, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới. Bảo vệ không phải chỉ là câu khẩu hiệu, lời tuyên bố chung chung mà phải xây dựng tiêu chí cụ thể làm căn cứ những người sáng tạo có chỗ dựa yên tâm khi hành động.
Đối tượng quản lý và chịu tác động của các trường đại học là những người có học thức cao, có đủ khả năng nhận biết và đánh giá những quyết định là phù hợp hay bất thường. Do vậy, nếu có một cơ chế công khai minh bạch và qui định trách nhiệm giải trình thì các trường đại học hoàn toàn có thể tự quyết định những vấn đề của mình một cách hiệu quả nhất mà không cần phải tuân thủ các qui định từ bên ngoài. Với cơ chế công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình thì các quyết định không thể mang tính chủ quan của một cá nhân mà là một quyết định có cơ sở, dựa trên các căn cứ lựa chọn tối ưu nhất được mọi người thừa nhận.
Theo ông, trong hoàn cảnh khi hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện và còn tồn tại nhiều vướng mắc, khó khăn như vậy thì các trường đại học phải chủ động vượt qua khó khăn đó như thế nào?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Theo tôi, ngay trong nội bộ nhà trường phải có quy định, quy chế rõ ràng về vấn đề quản lý. Phải phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng trường và Ban giám hiệu.
Đó là việc làm cần thiết hiện nay vì pháp luật chưa quy định rõ ràng, thậm chí mỗi cơ sở, mỗi trường vẫn hiểu theo một cách khác nhau. Các trường đại học phải có quy định, quy chế để làm căn cứ, cơ sở cho những quyết định của mình. Những quy định này cũng cần được công khai minh bạch, khi thực hiện, trường có trách nhiệm công khai với xã hội để cơ quan quản lý nhà nước thay mặt xã hội kiểm tra giám sát. Khi đó cơ quan chủ quản không còn đóng vai trò xét duyệt, xin cho mà thực sự đóng vai trò của cơ quản lý, làm nhiệm vụ “thổi còi” nếu hành động của các trường vi phạm luật hoặc không thực hiện đúng các tuyên bố, cam kết với xã hội.
Bên cạnh đó, các trường phải chia sẻ, kết nối với nhau, phải có tiếng nói đồng thuận để các cơ quan quản lý nhà nước hiểu những vấn đề còn tồn tại trong cơ chế hiện nay. Những gì luật pháp quy định thì các trường cần tuân thủ, những gì luật chưa quy định hoặc luật quy định không rõ ràng thì phải có cách xử lý, phải có hướng đi, thể hiện công khai, minh bạch, việc này đòi hỏi nội bộ các trường phải có quyết định và các trường phải bắt tay làm việc cùng nhau.
Thưa Giáo sư, Chính phủ và các cơ quan quản lý cần phải làm gì để có khung pháp lý đủ rộng giúp các trường đại học vững bước trên con đường tự chủ?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Hiện nay, chúng ta đang rất cần một Nghị định Chính phủ về tự chủ đại học, quan trọng nhất là về phân cấp, phân quyền, nêu rõ vai trò của cơ quan chủ quản cũng như các quản lý nhà nước như thế nào, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các trường ra sao?
Phải có hành lang pháp lý đủ rộng, giảm bớt những chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp lý đang làm cản trở con đường tự chủ của các trường.
Đặc biệt chúng ta nên thay đổi tư duy tuân thủ, chấp hành bằng tư duy tự quyết, tự chịu trách nhiệm giải trình một cách công khai minh bạch để các trường đại học tự do sáng tạo, đổi mới, bứt phá thành công.
Trường đại học là nơi chứa đựng những tri thức, sáng tạo những giá trị xã hội mới. Hãy để các trường được tự chủ một cách đúng nghĩa, phát triển, sáng tạo và tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Bốn đại học Việt Nam lọt top ảnh hưởng có gì đặc biệt?
THE công bố danh sách trường đại học có tầm ảnh hưởng sự phát triển kinh tế - xã hội. Bốn đại học của Việt Nam là những đại diện nổi bật, được đánh giá cao ở nhiều phương diện.
1. Đại học Tôn Đức Thắng: Trong danh sách THE Impact Rankings năm nay, trường xếp thứ 401-600. Dù tụt hạng so với năm 2019, trường vẫn được đánh giá cao ở một số phương diện như tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững (61.3-68.3 điểm), xã hội hòa bình, công bằng và phát triển (47.4-55.1 điểm)...
Theo Times Higher Education , Đại học Tôn Đức Thắng là trường đại học trẻ, phát triển nhanh với hơn 25.000 sinh viên và 1.300 giảng viên. Hiện, trường có 17 khoa, 71 nhóm nghiên cứu và 114 chương trình đại học, sau đại học. Chương trình của trường tập trung vào nghiên cứu, đào tạo quốc tế hóa chất lương cao và nghiên cứu liên ngành.
Năm 2021, Đại học Tôn Đức Thắng dự kiến tuyển sinh 5.560 chỉ tiêu trình độ đại học, bao gồm 40 ngành chương trình tiêu chuẩn, 17 ngành chương trình chất lượng cao, 12 ngành chương trình đại học bằng tiếng Anh, 11 ngành chương trình học 2 năm đầu tại cơ sở và 12 ngành chương trình đại học du học luân chuyển campus.
2. Đại học Quốc gia Hà Nội: Đồng hạng với Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội được đánh giá cao ở chất lượng giáo dục với 71.4 điểm. Đây là năm đầu tiên trường góp mặt trong xếp hạng THE Impact Rankings.
Theo giới thiệu của Times Higher Education , Đại học Quốc gia Hà Nội là trường đa ngành, đa lĩnh vực hàng đầu tại Việt Nam. Với phương châm "trải nghiệm thông qua tri thức", trường có nhiệm vụ đào tạo nhân lực trình độ cao cho cả nước và được kỳ vọng là một trong những cơ sở giáo dục đại học hàng đầu có thể đóng góp và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm 2021, Đại học Quốc gia Hà Nội tuyển sinh 11.250 chỉ tiêu, với 132 ngành/chương trình đào tạo thuộc các lĩnh vực: Khoa học tự nhiên, Khoa học Xã hội và nhân văn, Công nghệ - Kỹ thuật, Kinh tế - Luật, Y - Dược, Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên.
3. Đại học Bách khoa Hà Nội: Tụt bậc so với năm 2020, Đại học Bách khoa Hà Nội xếp thứ 601-800 trong danh sách năm nay. Đây là năm thứ 2 trường góp mặt trong xếp hạng và được đánh giá cao ở phương diện tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững (61.3-68.3 điểm).
Times Higher Education giới thiệu Đại học Bách Khoa Hà Nội là đại học kỹ thuật lớn nhất và lâu đời nhất của Việt Nam, được thành lập từ năm 1956. Đây là cơ sở giáo dục đại học đa ngành, trong đó có nghiên cứu khoa học là mục tiêu, lực lượng hàng đầu.
Phương châm của trường là phát triển con người, đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và chuyển giao tri thức phục vụ đất nước. Năm nay, trường tuyển sinh 7.420 chỉ tiêu, theo 3 phương thức là xét tuyển tài năng; xét tuyển dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT 2021; xét tuyển dựa trên kết quả kỳ thi đánh giá tư duy (xét tuyển riêng).
4. Đại học Phenikaa: Lần đầu tiên góp mặt trong xếp hạng THE Impact Rankings, Đại học Phenikaa được đánh giá ở hạng 801-1.000. Trong đó, phương diện tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững được đánh giá cao nhất với 55.3-61.2 điểm.
Thành lập năm 2007. Đại học Phenikaa hiện có 13 khoa, trong đó có nhiều chương trình đào tạo bắt kịp xu hướng hiện đại như quản trị kinh doanh, ngân hàng, công nghệ vật liệu, kỹ thuật ô tô, công nghệ sinh học... Muc tiêu phát triển của trường là tạo ra môi trường giảng dạy, học tập gắn liền thực tiễn và dựa trên triết lý giáo dục: Tôn trọng - Sáng tạo - Phản biện.
Năm 2021, Đại học Phenikaa tuyển sinh 3.767 chỉ tiêu cho 32 ngành/chương trình đào tạo theo 3 phương thức là: Xét tuyển thẳng; xét tuyển theo kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT 2021 và xét tuyển theo kết quả học tập bậc THPT.
Sự thật bất ngờ về cơ hội việc làm khi học chuyên ngành Golf bị gán nhãn 'quý tộc' Chuyên ngành Golf thuộc ngành Giáo dục thể chất của một số trường đại học, hiện nay đây được xem là những ngành thể thao thời thượng có nhu cầu tuyển dụng cao. Thạc sĩ Ngô Trí Dũng - Phó trưởng phòng Tuyển sinh-truyền thông, Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng cho biết: "Những thí sinh thi vào ngành chuyên ngành Golf bắt...