Bài thuốc trị bệnh đau nửa đầu
Theo Đông y, hội chứng đau nửa đầu (Meniere) thuộc chứng huyễn vựng gồm triệu chứng chóng mặt là chủ yếu kết hợp với các chứng ù tai, nôn mửa. Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh theo từng thể.
Thể can phong: do can hỏa vượng, can dương bốc lên, can thận âm hư gây ra. Thường gặp ở người tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, rối loạn giao cảm… Biểu hiện: hoa mắt, chóng mặt, ù tai, miệng khô, đắng, nôn mửa, phiền táo, dễ cáu gắt, đầu lưỡi đỏ, mạch huyền, tế, đới sác. Phép chữa: bình can tức phong, tiềm dương, hoặc bổ thận âm, bổ can huyết. Dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1: thục địa 16g, quy bản 12g, miết giáp 12g, câu kỷ tử 12g, long cốt 12g, mẫu lệ 18g, câu đằng 16g, táo nhân 12g. Sắc uống.
Bài 2: Lục vị hoàn gia giảm: thục địa 16g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g; phục linh, trạch tả, đơn bì, bạch thược, đương quy, cúc hoa mỗi vị 8g; long cốt 12g; mẫu lệ 12g; câu kỷ tử 12g. Sắc uống.
Bài 3: Thiên ma câu đằng ẩm: thiên ma 12g, câu đằng 16g, phục linh 12g, tang ký sinh 16g, dạ giao đằng 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 8g, thạch quyết minh 20g. Sắc uống.
Bài 4: Nếu huyết áp tăng gây chóng mặt, phiền táo, ngủ ít, tiểu tiện đỏ, táo bón, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác, biểu hiện của chứng can hỏa vượng thì dùng bài Long đởm tả can thang gia giảm: long đởm thảo 12g, hoàng cầm 12g, sơn chi 12g, sài hồ 12g, sinh địa 16g, đương quy 8g, mộc thông 12g, xa t.iền 16g, trạch tả 8g, cam thảo 4g, địa long 12g, mẫu lệ sống 16g. Sắc uống.
Long nhãn tốt cho người bệnh đau nửa đầu thể huyết hư.
Video đang HOT
Thể huyết hư:
thường gặp ở người thiếu m.áu, xơ cứng động mạch. Biểu hiện: sắc mặt xanh hoặc vàng úa, hồi hộp, ngủ ít, mệt mỏi, hay quên, ăn kém, chất lưỡi nhạt ít rêu, chóng mặt, hoa mắt. Mạch tế nhược. K.inh n.guyệt không đều, lượng kinh ít, sắc kinh nhạt. Phép chữa: dưỡng huyết, tức phong. Dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1: thục địa 16g, xuyên khung 12g, kỷ tử 12g, hà thủ ô 16g, tang ký sinh 16g, ngưu tất 12g, long nhãn 12g, cỏ nhọ nồi 12g, hoài sơn 12g. Sắc uống.
Bài 2: Tứ vật thang gia giảm: thục địa 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 8g, đương quy 12g, tang ký sinh 16g, kỷ tử 12g, long nhãn 12g, hà thủ ô 16g, a giao 8g, ngưu tất 12g. Sắc uống.
Bài 3: Bát trân thang gia giảm: thục địa 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 8g, đương quy 8g, đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, phục linh 8g, cam thảo 4g, địa long 12g, mẫu lệ sống 16g, thạch quyết minh 20g, tang ký sinh 16g. Sắc uống.
Bài 4: Ngũ vị tử thang: ngũ vị tử 8g, toan táo nhân 12g, hoài sơn 12g, long nhãn 12g, đương quy 8g. Sắc uống.
Thể hàn thấp: Biểu hiện: người béo trệ, chóng mặt, hoa mắt, lợm giọng, buồn nôn, ngủ hay mê, ăn kém, sáng hay khạc ra đờm, miệng nhạt, lưỡi bệu, rêu dính, mạch hoạt. Phép chữa: hòa đàm trừ thấp. Dùng bài Nhị trần thang gia giảm: trần bì 8g, bán hạ chế 8g, phục linh 8g, cam thảo 4g. Sắc uống.
- Nếu miệng đắng, lưỡi khô, tiểu vàng, phiền táo, đại tiện táo thêm trúc nhự 8g, chỉ thực 12g, bạch thược 12g, địa long 8g, thạch xương bồ 8g.
- Nếu rêu lưỡi trắng dính, đại tiện lỏng, miệng không khát, thêm đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, trạch tả 8g.
Kết hợp day bấm các huyệt sau:
- Nội quan: từ cổ tay phía lòng bàn tay đo lên 2 tấc, cách 2 ngón tay 2 và 3.
- Lao cung: từ khe giữa ngón tay thứ 3 và thứ 4 kéo thẳng xuống giữa lòng bàn tay.
- Thiên lịch: trên huyệt dương khê 3 tấc.
- Phong trì: phía sau tai, chỗ lõm ở chân tóc.
- Định huyễn: từ phong trì đo lên 1 thốn.
Chủ yếu là day bấm 2 huyệt lao cung và thiên lịch có tác dụng tốt trong điều trị bệnh. Phối hợp tất cả các huyệt có tác dụng thanh nhiệt ở lục phủ ngũ tạng, thanh tâm hỏa, trừ thấp nhiệt, lương huyết, định tâm, an thần, thông mạch lạc, trị đau đầu, ù tai, đau các dây thần kinh, có tác dụng tốt trong phòng và trị bệnh đau nửa đầu.
Theo BĐVN
Thuốc từ các loại nhộng
Trong thiên nhiên, có một số loại côn trùng dưới dạng nhộng trước khi trở thành cá thể trưởng thành, đã được sử dụng làm thuốc phổ biến trong kho tàng y học dân gian.
- Nhộng ong: có hai loại được sử dụng là nhộng ong nuôi (ong mật) và nhộng ong bò vẽ. Nhộng ong nuôi có vị hơi ngọt, lạnh, không độc, có tác dụng sát khuẩn, chống tổn thương suy yếu nội tạng, ích khí, chống lão suy, làm nhan sắc tươi nhuận, da dẻ mịn màng. Người dân ở tỉnh Bình Thuận rất thích ăn nhộng ong nuôi dưới dạng sống hoặc tẩm bột và bơ rồi chiên vàng để làm thuốc bồi dưỡng, nâng cao thể lực. Nhộng ong nuôi 3 - 5 con, nghiền nát với ít đường trắng, ăn chữa xuất huyết; nếu phối hợp với tầng sáp 10g, sắc uống chữa ho gà.
- Nhộng ong bò vẽ: có thân mềm, màu trắng ngà, chứa nhiều acid amin, chất béo, vitamin, đường và muối khoáng. Dược liệu có vị ngọt, mặn, tính mát, có độc, tác dụng giảm đau, chống nôn, tăng lực, bền cơ. Nhộng ong bò vẽ 3 - 5g sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày chữa ngực bụng đau, nôn khan.
Có thể sao vàng, tán bột, trộn với mật mà uống. Dịch chiết từ nhộng ong bò vẽ được pha chế thành dạng nước uống có tác dụng làm giảm mỏi cơ bắp, nâng cao thể lực và sức bền. Thuốc được dùng cho những vận động viên chạy đường dài.
Nhộng tằm là một vị thuốc tốt cho người già yếu, trẻ còi xương.
- Nhộng tằm: thu hoạch ở những kén đã chín vàng, thường dùng tươi, có thể phơi hay sấy khô.
Nhộng tằm, tên thuốc là tàm dũng, có vị mặn, ngọt, bùi béo, tính bình, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng, mạnh gân xương. T.rẻ e.m ăn nhộng tằm rất tốt vì calci và phospho trong nhộng rất cần cho cơ thể của trẻ chống còi xương.
Người già yếu, thận hư, liệt dương, tiểu són, tiểu nhiều lần, táo bón cũng nên dùng nhộng tằm thường xuyên. Dạng dùng thông thường là cho nhộng vào cháo nóng, nhất là cháo nấu chim sẻ, chim cút hoặc rang nhộng với hành mỡ hay xào nhộng với lá hẹ, mộc nhĩ, ăn với cơm. Liều dùng: 50 - 100g/ngày, chia 2 - 3 lần.
Theo tài liệu nước ngoài, nhộng tằm 50g sao vàng, phối hợp với hồ đào 100g thái nhỏ, trộn đều, thêm nước, hấp cách thủy cho chín nhừ, ăn cái uống nước, chữa sa dạ dày. Nhộng tằm nấu với đường phèn còn hỗ trợ chữa động kinh.
- Nhộng ve sầu: còn gọi là ve sữa non, có thân mập ú, tròn múp, chưa mọc cánh và chân, căng đầy sữa non, màu nâu nhạt. Người ta thu hoạch nhộng ve sầu bằng cách tìm vào những khu vườn hoặc khu rừng ẩm có nhiều cây to, rợp bóng râm mát mẻ, đất quanh gốc cây tơi, xốp, mềm. Lấy cuốc dọn nhẹ lớp lá khô trên mặt đất để lộ ra những lỗ tròn, nhỏ, đường kính khoảng 1,5 - 2cm. Dùng thuổng xắn xung quanh lỗ đến độ sâu 30 - 40cm, rồi bứng cả cột đất lên, bắt lấy nhộng.
Những con nhộng ở lỗ gần mặt đất to và béo mập hơn những con ở sâu trong lòng đất. Đem về, nhúng nhộng vào nước ấm cho sạch đất cát rồi dùng ngay. Dùng sống, đem tẩm nhộng với bột, chiên giòn mà ăn hoặc ngâm nhộng vào rượu thuốc trong nhiều ngày mới uống. Theo kinh nghiệm của người dân ở tỉnh An Giang, nhộng ve sầu là thuốc bổ cho người cao t.uổi và trẻ nhỏ. Đàn ông t.uổi trung niên dùng nhộng ve sầu thấy cơ thể sung mãn, tinh lực dồi dào, thần khí mạnh mẽ.
Theo BĐVN
7 "cứu tinh" cho đường tiêu hóa Một đặc tính của thực phẩm mà chúng ta vô tình không biết hoặc biết nhưng không tin và cố tình bỏ qua, đó là khả năng chữa lành các tổn thương. Một số thực phẩm còn có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa. Vậy nên, nếu gặp các vấn đề về tiêu hóa như táo bón hoặc đầy hơi, chướng bụng, đừng...