Bắc Kạn: “Điều ước” đi qua, hạnh phúc ở lại
Nhìn những “điều ước” về bữa ăn trưa, hộp sữa, bình nước lọc, chiếc áo ấm, nhà vệ sinh cho các điểm trường vùng cao trở thành hiện thực, các thầy cô ở đây không khỏi mừng vui và tiếp tục thắp những hy vọng.
Cô giáo Triệu Mùi Viển – Đại sứ chương trình “Điều ước cho em” tại Bắc Kạn.
Cô giáo Triệu Mùi Viển, Trường Mầm non Bộc Bố, Pác Nặm (Bắc Kạn) có hơn 10 năm lăn lộn dạy học qua 6 điểm trường, nên rất thấu hiểu những thiệt thòi của trẻ nhỏ trên những bản cao. Từ mong mỏi về bữa ăn bán trú, điều kiện sinh hoạt và học tập các cháu nơi bản cao, cô Viển trở thành Đại sứ chương trình “Điều ước cho em” tại Bắc Kạn.
Tháng 12/2020, “Điều ước cho em” chính thức về với Bắc Kạn. Chương trình đã tổ chức khởi công xây dựng bếp ăn, sân trường, nhà vệ sinh cho điểm trường Slam Vè (xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm); khởi công xây dựng bếp ăn và nhà vệ sinh cho điểm trường Nặm Lẩu (xã Sĩ Bình, huyện Bạch Thông).
Các điểm trường đặc biệt khó khăn này cũng được tặng nhiều vật dụng mà các em học sinh đang rất cần như áo ấm, giầy, ủng, máy lọc nước… Tổng trị giá hỗ trợ của chương trình lên tới gần 500 triệu.
Học trò tại điểm trường của Nhạn Môn (Pác Nặm, Bắc Kạn) đã được uống sữa.
Có thể thấy, chương trình đã giải quyết những nhu cầu thiết yếu, cải thiện điều kiện để việc dạy và học được thuận lợi hơn, đồng thời cũng góp phần từng bước thay đổi tích cực thói quen sinh hoạt của các cháu.
Video đang HOT
Tại điểm trường Slam Vè (xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm), trước đây các cháu học sinh bán trú đi học phải gói cơm mang theo ăn trưa, tùy điều kiện gia đình có gì ăn đó. Đến nay, nhờ kinh phí hỗ trợ của chương trình, các cháu lần đầu tiên đã có sữa để uống.
Hi vọng về sự cải thiện dinh dưỡng, nâng cao thể chất đã được thắp lên, cũng đồng nghĩa rằng những hi vọng về sự đổi thay nơi vùng khó này đã bắt đầu rõ ràng hơn.
Đối với điểm trường Nặm Lẩu (xã Sĩ Bình, huyện Bạch Thông), mùa đông này các cháu được đến trường với những đôi giày, ủng cùng áo khoác ấm áp do chương trình tặng. Việc hàng ngày các cháu được uống nước đảm bảo vệ sinh an toàn từ chiếc máy lọc nước sạch là quà tặng của chương trình cũng đem lại yên tâm lớn cho các phụ huynh và các cô giáo.
Các em nhỏ tại điểm trường Nặm Lẩu (Sĩ Bình, Bạch Thông, Bắc Kạn) được sử dụng nước sạch qua máy lọc nước
Cô giáo Triệu Mùi Viển bày tỏ niềm vinh dự và may mắn khi được lựa chọn làm đại sứ của chương trình. Điều khiến bản thân cảm thấy hạnh phúc nhất, theo cô, là mình được trở thành cầu nối, nói lên những khó khăn cùng những mong mỏi của trẻ nhỏ nơi các điểm trường trên bản cao.
“Các em nhỏ ở đây quá thiệt thòi, việc sinh hoạt và học tập của các em quá khó khăn. Những bữa cơm trưa, những hộp sữa, những chiếc áo ấm, và cả những cốc nước sạch qua máy lọc, nhà vệ sinh đảm bảo,… tất cả đều vô cùng cần thiết. Nếu không có chương trình thì biết bao giờ các em mới được nhận những điều lẽ ra phải có hàng ngày” – cô giáo Triệu Mùi Viển bày tỏ.
Cô cũng cho biết, còn rất nhiều nơi mà việc học của các em thiếu thốn, gian khổ, các em rất cần sự quan tâm hỗ trợ. Điều mong muốn tiếp theo của cô Viển là chương trình “Điều ước cho em” mang ý nghĩa thiết thực này sẽ tiếp tục được duy trì, lan tỏa, đến với nhiều nơi, nhiều trường hơn nữa trong thời gian tới.
Hiện nay, để tiếp tục triển khai chương trình “Điều ước cho em”, Sở GD&ĐT Bắc Kạn đã hướng dẫn các đơn vị, nhà trường trên địa bàn toàn tỉnh rà soát, cập nhật thông tin về những khó khăn và nhu cầu hỗ trợ như: sửa chữa và xây mới nhà vệ sinh; nước sinh hoạt, nước uống, thiết bị lọc nước sạch; nhà bếp, dụng cụ bếp ăn; đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân; bữa ăn trưa…
Lắng lòng điều ước của cô giáo trẻ nơi bản cao
Hơn 10 năm công tác tại 6 điểm trường, thấu hiểu những thiệt thòi của trẻ nhỏ trên những bản cao, cô Triệu Mùi Viển (Trường Mầm non Bộc Bố, Pác Nặm, Bắc Kạn) chỉ mong sao học trò có được... bữa trưa đủ no.
Cô giáo Triệu Mùi Viển bên các học trò.
Dành thanh xuân cho điểm trường vùng khó
Triệu Mùi Viển sinh ra và lớn lên tại vùng quê nghèo Pác Nặm. Bố mẹ làm nông, từ nhỏ Viển đã quen với việc leo đồi, lội suối đi làm nương, rẫy để tìm cái ăn. Năm 1995, lớp học đầu tiên được mở tại điểm trường Nà Mặn (xã Công Bằng),Viển may mắn được đi học, được các thầy cô hết lòng thương yêu dạy dỗ. Hình ảnh thầy cô đứng trên bục giảng say sưa dạy chữ, múa hát cho học sinh đã thôi thúc Viển quyết tâm học để sau này được làm cô giáo.
Lên cấp 2, Viển phải ở trọ xa nhà hơn 12km. Giao thông đi lại khó khăn, phải lội suối, leo đồi rất vất vả, đôi lúc cô gái nhỏ cũng nản lòng muốn bỏ học, nhưng nghĩ đến mong muốn thay đổi cuộc sống của bản thân, trẻ em nơi bản làng, Viển lại quyết tâm thực hiện ước mơ.
Năm 2008, sau khi tốt nghiệp Trung cấp sư phạm Mầm non, những ngày đầu mới ra trường, cô giáo trẻ Triệu Mùi Viển xung phong đi dạy hợp đồng tại điểm trường Ngảm Váng (Trường Mầm non Nhạn Môn). Lớp có 21 học sinh là con em dân tộc Mông, số học sinh biết tiếng Việt là 4/21 học sinh, 100% là con em hộ nghèo.
Đến năm 2010, cô tiếp tục xin đi dạy hợp đồng tại điểm trường Nặm Sai (Trường Mầm non Công Bằng), cách trung tâm xã 7km, đi bộ khoảng 3 tiếng đồng hồ từ điểm trường chính. Một mình cô chăm con nhỏ vừa tròn 6 tháng tuổi, trọ ở điểm trường, heo hút, không có điện thắp sáng, không có điện thoại.
Năm 2013, cô may mắn trúng tuyển và được phân công giảng dạy ở điểm trường Nặm Nhả (Trường Mầm non Xuân La), nơi có 100% học sinh là dân tộc Dao và Mông, việc sử dụng tiếng Việt của trẻ rất hạn chế.
Những năm sau đó, cô Viển tiếp tục giảng dạy ở điểm trường các bản cao của xã Bộc Bố: Khâu Vai, Lủng Pảng, Nặm May với học sinh dân tộc Mông, Dao, Tày, Sán Chỉ. Gia đình các em đều thuộc diện hộ nghèo, thiếu thốn đủ đường từ cái ăn, cái mặc, đồ dùng.
Sau hơn mười năm tự học ngôn ngữ của đồng bào để giao tiếp khi dạy trẻ, thành thạo các tiếng Dao, Mông, Tày, đến nay cô Viển được người dân coi như người con của bản.
"Là người con của quê hương, quyết tâm đi học và trở về gắn bó với bản làng, cô giáo Triệu Mùi Viển là tấm gương đẹp về ý chí tự vượt khó vươn lên và tinh thần cống hiến không ngại khó, ngại khổ" - ông Hoàng Văn Duy, Trưởng Phòng GD&ĐT huyện Pác Nặm nói về cô giáo trẻ tài năng, tâm huyết của quê nhà.
Niềm vui lớp học là động lực để cô giáo trẻ gắn bó, cống hiến.
Ngậm ngùi điều ước của GV cắm bản
Một ngày làm việc, cô Viển luôn tất bật, từ sáng sớm đã chuẩn bị hành trang lên núi, đến chiều buông lại tất tả trở về với gia đình. Nhưng dù công việc vất vả đến mấy, cô cũng không thấy nản lòng. Chỉ có điều trăn trở nhất, ấy là nhìn các cháu nhỏ trên những bản cao ngày ngày sống và học trong thiếu thốn.
Là người con của dân tộc Dao, cô thấu hiểu những khó khăn của các em trong việc đi học, khi mà bố mẹ, người thân không quan tâm chăm sóc, đường đi lại xa xôi cách trở, nguy hiểm. Đấy là chưa kể những hệ lụy của việc tảo hôn dẫn đến sinh con ra mà không làm được giấy khai sinh, khi con đến tuổi đi nhà trẻ, mẫu giáo không có hồ sơ nhập học.
"Đường đồi núi như thế mà các em đi lại hằng ngày, có cháu không có dép phải đi chân đất. Những ngày mưa không mũ nón, có cháu bị ướt hết. Bữa ăn trưa thì thương lắm, chẳng có gì bởi gia đình các em nghèo lắm" - cô Viển trầm giọng chia sẻ.
Hỏi về tâm nguyện, cô Viển nhắc đi nhắc lại chuyện bữa ăn trưa cho các cháu. "Chế độ là 149 nghìn tiền ăn cho mỗi cháu/tháng, các cô giáo không biết xoay sở tính toán làm sao để có 1 bữa trưa và 1 bữa phụ tàm tạm cho trẻ. Tiền ăn của cả năm học chỉ thực hiện khoảng 4 tháng đã hết rồi, vô cùng khó khăn. Không có bữa trưa ở trường, trẻ sẽ phải về nhà, mà đã về là buổi chiều nghỉ luôn chứ không quay lại lớp nữa. Bây giờ nếu có điều ước, tôi chỉ mong các điểm trường có bếp ăn và bữa trưa đủ no, bảo đảm dinh dưỡng cho các cháu" - cô Viển xót xa.
Điều ước nhỏ nhoi của cô Viển, cũng là trăn trở của những người thực hiện sứ mệnh "trồng người" nơi bản cao. Bởi trẻ nhỏ không bảo đảm sức khỏe, mãi loay hoay trong vòng xoay thấp còi, suy dinh dưỡng, bệnh tật làm sao có thể nghĩ xa hơn về chuyện xa học hành, vươn lên, cống hiến và đổi thay bản làng?
Bắc Kạn: Dồn ghép hợp lý các điểm trường, tăng chất lượng GD Do điều kiện đặc thù địa phương, những năm qua hệ thống mạng lưới trường lớp của Bắc Kạn được sắp xếp tinh gọn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy học. Học sinh trường THPT Phủ Thông được trang bị phòng máy vi tính phục vụ học tập. Giảm trường để phù hợp...