Ăn nội tạng động vật tốt hay xấu với sức khỏe?
Nội tạng nhiều dinh dưỡng song chứa lượng lớn chất béo bão hòa và cholesterol, thường xuyên ăn sẽ làm tăng mỡ máu, có hại cho tim mạch.
Nội tạng động vật bao gồm tim, gan, cật, lòng, não… Ở các nước phương Tây, người dân rất ít khi ăn nội tạng động vật. Tại Việt Nam, nội tạng động vật lại là món ăn khoái khẩu, được chế biến thành các món xào, luộc, chiên, nướng, ăn hàng ngày hoặc trên bàn nhậu.
Thạc sĩ, bác sĩ Lê Thị Hải, Viện dinh dưỡng Quốc gia cho biết, nội tạng động vật rất giàu vitamin và dinh dưỡng. Gan, thận nhiều vitamin A, sắt, kẽm, có tác dụng bổ mắt, tốt cho tim mạch và giảm các bệnh gây viêm. Óc động vật chứa axit béo omega 3 bảo vệ não người và tủy sống. Tim và lưỡi đặc biệt có lợi cho những người hồi phục sau khi ốm hoặc phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, nội tạng động vật cũng nhiều chất béo bão hòa và cholesterol hơn so với thịt, thường xuyên ăn sẽ làm tăng mỡ máu và có hại cho tim mạch. Hiệp hội Tim mạch Mỹ khuyến cáo chỉ nên bổ sung lượng chất béo bão hòa bằng 5-6% lượng calo tiêu thụ hàng ngày. Đây là lý do người Mỹ không ăn hoặc ăn rất ít nội tạng.
“Chưa kể nhiều cơ sở chế biến nội tạng động vật không hợp vệ sinh, nhiễm rất nhiều loại giun sán, vi khuẩn, virus nguy hại cho con người”, bác sĩ Hải nói. Người ăn phải nội tạng động vật kém chất lượng, bị ôi thiu, biến đổi màu rất dễ bị nhiễm giun sán. Một số nội tạng như ruột, dạ dày, tá tràng… của động vật được nuôi bằng nguồn nước bẩn còn chứa vi khuẩn E.coli gây bệnh tả, tiêu chảy, thương hàn.
“Tình trạng sử dụng các loại hóa chất tẩy rửa lòng heo trắng sáng và không còn mùi hôi thối, làm tăng nguy cơ tích tụ hóa chất trong cơ thể người ăn gây bệnh”, bác sĩ Hải nhấn mạnh.
Nội tạng động vật chứa lượng lớn chất béo bão hòa và cholesterol cao hơn so với thịt, thường xuyên ăn sẽ làm tăng mỡ máu và có hại cho tim mạch. Ảnh: H.N
Chung quan điểm, tiến sĩ dinh dưỡng Nguyễn Mộc Lan ví dụ, người Việt thích ăn tiết canh được chế biến từ máu động vật dễ dẫn đến nhiễm liên cầu khuẩn. Ở tình trạng nhẹ, bệnh nhân đau bụng dữ dội, bị viêm ruột. Nặng hơn, các liên cầu khuẩn lan rộng khắp cơ thể gây hoại tử tứ chi, tàn phá não và thậm chí tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Cho rằng “ăn gì bổ nấy” là không có cơ sở khoa học. “Người bị suy thận, thận hư nhiễm mỡ, bị rối loạn chuyển hóa lipid, cholesterol trong máu cao nên cần ăn giảm chất đạm, cho nên ăn nhiều thận động vật càng làm cho bệnh nặng thêm”, bà Lan nói. Quan niệm “ăn tim bổ tim” cũng vậy. Bệnh nhân tim mạch thường tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, nếu ăn nhiều tim sẽ làm cholesterol máu tăng cao, rất nguy hiểm tính mạng.
Video đang HOT
Hơn nữa, “ăn nội tạng có thể tốt cho người này nhưng không tốt cho người khác”, chuyên gia cho biết. Trẻ em, phụ nữ có thai hoặc cho con bú, người thiếu máu, thiếu sắt, thanh thiếu niên nên ăn các loại phủ tạng với hàm lượng phù hợp theo chỉ dẫn. Người cao tuổi, thừa cân béo phì nên hạn chế ăn nội tạng. Đặc biệt, người mắc các bệnh tăng mỡ máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh gout, thận hư nhiễm mỡ, suy tim tuyệt đối không nên ăn các loại phủ tạng.
Lưu ý khi ăn nội tạng động vật
- Chỉ mua nội tạng ở những cơ sở uy tín, có nguồn gốc rõ ràng. Chế biến đảm bảo vệ sinh, nấu chín kỹ.
- Khi bảo quản, để thực phẩm đã chín ở nơi sạch sẽ và cao ráo, không để chung với thực phẩm sống, tránh tình trạng bị lây nhiễm từ các nguồn thực phẩm bẩn khác.
- Lượng sử dụng nội tạng động vật phù hợp với mỗi người: Người trưởng thành chỉ nên ăn 2-3 lần trong tuần (khoảng 50-70 g một lần), trẻ em ăn 2 lần một tuần (khoảng 30-50 g mỗi lần).
- Người già, người thừa cân, béo phì, người bị rối loạn mỡ máu hoặc mắc bệnh lý tim mạch tốt nhất không nên dùng các món ăn chế biến từ phủ tạng động vật.
Thúy Quỳnh
Theo Vnexpress
Bà bầu ăn trứng gà cần lưu ý gì?
Trứng giúp phát triển thai nhi, có não khỏe, cung cấp năng lượng nhưng ăn 2 quả trứng mỗi ngày sẽ đặt phụ nữ có thai trong trạng thái "nạp" quá lượng cholesterol khuyến nghị.
Được xếp vào danh mục những loại "siêu thực phẩm" cần thiết cho thai phụ, trứng gà là nguồn cung cấp rất nhiều loại chất dinh dưỡng cho cả mẹ lẫn bé trong quá trình mang thai bao gồm chất béo, khoáng chất, protein, vitamin A và D.
Lợi ích của trứng gà
Phát triển thai nhi: Mỗi tế bào của bào thai đang phát triển được tạo thành từ protein. Trong khi đó, trứng có chứa đúng lượng protein cần thiết cho sự phát triển của bào thai mỗi ngày. Vì vậy, sử dụng trứng với số lượng vừa đủ sẽ rất hữu ích.
Xây dựng cho trẻ một hệ thống thần kinh và não bộ khỏe mạnh: Trứng có chứa acid béo omega-3, lutein, kẽm và choline, rất cần thiết cho sức khoẻ của não và sự tăng trưởng tổng thể. Nó cũng giúp ngăn ngừa sự xuất hiện các khuyết tật ống thần kinh ở thai nhi.
Cân bằng lượng chất béo bão hòa trong cơ thể mẹ: Các chuyên gia khuyên nên ăn một đến hai quả trứng mỗi ngày sẽ giúp cân bằng lượng chất béo bão hòa trong cơ thể thai phụ nếu họ có mức cholesterol binh thường. Với những người có mức cholesterol cao, nên tránh ăn lòng đỏ.
Cung cấp năng lượng: Thai phụ nên "nạp" thêm ít nhất 200-300 calories mỗi ngày so với bình thường nhằm mục đích nuôi dưỡng cả mẹ lẫn bé. Và mỗi quả trứng đã cung cấp 70 calories, chiếm 1/3 mức năng lượng tối thiểu cần "nạp" thêm.
Hạn chế các tình trạng bệnh liên quan đến thiếu vitamin D: Trong thời kỳ mang thai, hàm lượng vitamin D trong trứng đặc biệt quan trọng bởi vitamin D là loại không có sẵn trong quá nhiều thực phẩm và thai phụ không thể dễ dàng bổ sung chúng, dẫn đến tình trạng thiếu Vitamin D. Tình trạng này trong thai kỳ có thể dẫn đến nguy cơ tiền sản giật, tiểu đường ở mẹ cao hơn, tỷ lệ thở khò khè và bệnh truyền nhiễm ở trẻ sơ sinh cao hơn.
Hạn chế các dị tật bẩm sinh: Tương tự như omega-3 và cholin, folate trong trứng cũng là yếu tố quan trọng trong thời kỳ mang thai đối với sự phát triển bình thường của ống thần kinh, thông qua đó góp phần làm thấp làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh.
Quản lý cân nặng của thai phụ: Tình trạng thừa cân béo phì rất phổ biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển. Những thai phụ thừa cân trong quá trình mang thai có nguy cơ cao xuất hiện các biến chứng sản khoa. Protein chất lượng cao được tìm thấy trong trứng đã được chứng minh là tốt cho sức khỏe và góp phần cải thiện cân nặng của thai phụ thông qua việc làm tăng cảm giác hài lòng của thai phụ đối với phần ăn của mình.
Với những giá trị dinh dưỡng nổi bật như vậy, trứng thực sự cần được bổ sung vào chế độ ăn của thai phụ.
Trứng cũng đem đến một số nguy cơ bên cạnh nhưng lợi ích của mình. Ảnh: T.H.
Lưu ý khi bà bầu ăn trứng
Tuy nhiên, trứng cũng đem đến một số nguy cơ bên cạnh nhưng lợi ích của mình.
Lòng đỏ trứng có 185-213 miligam cholesterol. Trong một ngày, người lớn nên tiêu thụ ít hơn 300 miligam cholesterol. Ăn hai quả trứng mỗi ngày sẽ đặt một phụ nữ có thai trong trạng thái "nạp" quá lượng cholesterol khuyến nghị. Trong khi đó, ngoài trứng, chúng ta còn rất nhiều loại thực phẩm khác có chứa cholesterol trong bữa ăn hàng ngày.
Hơn nữa, một phụ nữ bị thừa cân hoặc có mức cholesterol cao trong thời kỳ mang thai có thể tăng nguy cơ xuất hiện các biến chứng nếu ăn trứng mỗi ngày. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ khuyến cáo hạn chế lòng đỏ trứng trong phần ăn chỉ còn 3-4 lần mỗi tuần. Do đó, lựa chọn tốt nhất là ăn lòng trắng trứng nếu bạn muốn ăn nhiều hơn một quả mỗi ngày.
Bên cạnh đó, trứng sống hoặc trứng không đảm bảo vệ sinh có thể là nguy cơ gây lây nhiễm salmonella. Mặc dù salmonella không gây hại trực tiếp cho trẻ nhưng có thể khiến thai phụ bị đau bụng, tiêu chảy, nôn, sốt, đau đầu.
Ăn trứng sẽ giúp da con trắng?
Trứng đóng vai trò trong việc hình thành nên các tế bào của thai nhi, bao gồm da của trẻ. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, chưa có nghiên cứu được công bố rộng rãi khẳng định rằng ăn trứng trong thai kỳ sẽ giúp da của trẻ trắng hơn cũng như chưa có nghiên cứu nào khẳng định trứng có khả năng ảnh hưởng đến sắc tố da của thai nhi.
Nhiều người cũng cho rằng ăn trứng con sẽ rất thông minh. Thực tế, trứng gà có chứa omega-3, choline, kẽm, lutein và folate giúp xây dựng cho trẻ một hệ thống thần kinh khỏe mạnh và hạn chế các dị tật bẩm sinh. Bên cạnh đó, choline cũng được chứng minh là có khả năng giúp trẻ ghi nhớ tốt hơn.
Theo news.zing.vn
Giải mã hiện tượng 'người sống lại từ cõi chết' Hội chứng Lazarus, hạ thân nhiệt, "chứng bắt thế"... được giả thiết khiến một người được tuyên bố đã chết rồi sống lại, song vẫn còn là bí ẩn. Benjamin Franklin đã từng nói: "Trong thế giới này không có gì chắc chắn hơn cái chết và thuế". Tuy nhiên, trong bối cảnh lâm sàng, khi một người ngừng thở, tim và các...