6 bệnh viêm màng não thường gặp
Viêm màng não là bệnh lý nhiễm trùng màng bao phủ não – nguyên nhân hầu hết bệnh do virus gây ra, với tỷ lệ biến chứng và tử vong cao.
Ảnh minh họa
Vì vậy, bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực khuyến cáo những bệnh viêm não thường gặp như sau:
Viêm màng não do Haemophilus influenzae type B (HiB)
Bệnh thường gây viêm màng não mủ ở trẻ em dưới 6 tuổi. Ở người lớn, viêm màng não do HiB thường liên quan tới các ổ nhiễm trùng cận kề màng não như viêm xoang, viêm tai xương chũm, viêm tai giữa, đái tháo đường, suy giảm miễn dịch, viêm phổi…
Ngoài ra, viêm màng não do HiB có thể đi kèm với các biểu hiện khác của nhiễm trùng toàn thân như viêm phổi, viêm mủ hầu họng, viêm cơ, nhiễm trùng huyết, viêm tủy xương. Trong đó, biểu hiện lâm sàng của viêm màng não do HiB không có gì đặc biệt so với các viêm màng não khác: Sốt, đau đầu, nôn…
Dấu hiệu màng não có thể rõ hoặc kín đáo. Một số bệnh nhân sau khi khỏi bệnh còn có các di chứng thần kinh như giảm thính lực hoặc điếc, chậm nói, não úng thủy.
Viêm màng não do não mô cầu (VNMC)
Bệnh lây qua đường hô hấp và dễ lan thành dịch. Trẻ em và người trẻ tuổi là nhóm mắc bệnh nhiều nhất. VNMC thường khởi phát cấp tới tối cấp và hầu hết thường đi kèm với nhiễm khuẩn huyết.
Các biểu hiện thường gặp bao gồm sốt cao, rét run, đau đầu, nôn, rối loạn tinh thần. Bệnh nhân thường có hội chứng màng não.
Dấu hiệu đặc trưng nhất của bệnh là ban trên da, phân bố rải rác khắp cơ thể, có dạng dát sẩn mầu hồng kích thước 2-10 mm, chấm xuất huyết.
Trong các trường hợp nặng, nhiều vùng da lớn bị xuất huyết và hoại tử. Tình trạng bệnh nhân thường nguy kịch, huyết áp hạ hoặc có thể có shock, suy đa cơ quan và đông máu nội quản rải rác có thể xảy ra.
Viêm màng não do phế cầu
Phế cầu (S. pneumoniae) là tác nhân gây viêm màng não thường gặp ở người lớn.
Video đang HOT
Bệnh nhân viêm màng não thường có các ổ nhiễm phế cầu kề cận sọ não hoặc ở các cơ quan khác như viêm phổi, viêm tai giữa, viêm tai xương chũm, viêm xoang, viêm nội tâm mạc.
Nhiễm phế cầu nặng hay gặp ở các bệnh nhân có các bệnh cơ địa như nghiện rượu, suy dinh dưỡng, đái tháo đường, bệnh ác tính, các bệnh suy giảm miễn dịch.
Viêm não – màng não do các Enterovirus
Các virus đường ruột (Enterovirus) xâm nhập vào não từ đường tiêu hóa do ăn phải thức ăn, nước uống có chứa virus gây bệnh.
Đối tượng mắc chủ yếu là trẻ dưới 3 tuổi. Triệu chứng người bệnh sốt nhẹ 38 độ C, mệt mỏi, đau đầu, chán ăn, nôn mửa, tiêu chảy. Sau 2-3 ngày xuất hiện co giật, hôn mê và có thể tử vong rất nhanh nếu không điều trị kịp thời. Nếu điều trị kịp thời, bệnh khỏi và không để lại di chứng.
Một số Enterovirus khác có thể gây đau cơ ngực và cơ bụng, viêm cơ tim. Phần lớn các ca bệnh diễn biến lành tính, thường khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, cũng có một số bệnh nhân có thể tiến triển nặng và tử vong.
Viêm màng não do tụ cầu vàng và trực khuẩn mủ xanh
Tụ cầu vàng (S. aureus) và trực khuẩn mủ xanh (Ps. aeruginosae) là hai vi khuẩn hàng đầu gây viêm màng não ở những bệnh nhân sau phẫu thuật thần kinh, sau chấn thương sọ não, phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy, viêm nội tâm mạc.
Trong đó, diễn biến viêm màng não do các vi khuẩn này thường nặng, điều trị khó, tỷ lệ tử vong cao.
Viêm màng não do lao
Bệnh viêm màng não do lao là loại viêm màng não kéo dài (mạn tính) thường gặp nhất.
Bệnh thường khởi phát bán cấp hoặc từ từ trong khoảng 1-2 tuần với sốt và đau đầu tăng dần. Trên lâm sàng, các dấu hiệu màng não thường kín đáo. Liệt các dây thần kinh sọ não là dấu hiệu thường gặp (dây VI, VII,..). Trong các giai đoạn muộn, bệnh nhân có thể lú lẫn, hôn mê, liệt các chi.
Áp xe phổi: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh
Áp xe phổi là tình trạng hoại tử nhu mô phổi do nhiễm trùng, tạo thành các hang trong phổi chứa tổ chức hoại tử và có thể có cả dịch ở bên trong.
Các biến chứng của áp xe phổi là giãn phế quản, viêm màng não... có thể đe dọa đến tính mạng.
1. Nguyên nhân gây áp xe phổi
Áp xe phổi có thể chỉ có 1 ổ hoặc thậm chí nhiều ổ (áp xe đa ổ). Nguyên nhân hay gặp của áp xe phổi là do hít sặc vào phổi các chất tiết vùng miệng họng, kết hợp với viêm lợi hoặc vệ sinh răng miệng kém, thường do các vi khuẩn vùng miệng họng.
Ngoài ra, vi khuẩn gây áp xe phổi có thể đến theo đường máu từ một ổ viêm nội tâm mạc bên tim phải, căn nguyên thường do vi khuẩn tụ cầu.
Hệ hô hấp tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài nên rất dễ bị nhiễm khuẩn, tuy nhiên phổi nằm sâu nên nguy cơ nhiễm khuẩn thấp hơn, hơn nữa cơ thể có cơ chế bảo vệ phổi khá tốt.
Bình thường nếu cơ chế này hoạt động tốt, vi khuẩn và tác nhân gây bệnh khác sẽ được loại bỏ trước khi gây viêm phổi nặng và xuất hiện áp xe.
Các nguyên nhân khiến cơ chế bảo vệ phổi giảm sút có thể kể đến như: Thuốc lá, rượu, tình trạng suy giảm miễn dịch, bệnh lý nghề nghiệp, suy dinh dưỡng, độc tính vi khuẩn hoặc thực phẩm, một số thuốc điều trị...
Áp xe phổi nếu được chẩn đoán và điều trị muộn thì nguy cơ biến chứng và tiên lượng điều trị sẽ khó khăn.
2. Dấu hiệu áp xe phổi
Bệnh thường tiến triển âm thầm, sau nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, các triệu chứng có thể không điển hình, bao gồm: ho có đờm, sốt, mồ hôi đêm, sụt cân; đôi khi bệnh nhân đến khám vì ho ra máu, đau ngực, ho đờm đục, hoặc đờm có dây máu và có mùi hôi, kèm theo hơi thở hôi.
Giai đoạn ổ mủ kín bệnh cảnh lâm sàng giống viêm phổi cấp.
Giai đoạn ộc mủ: Sau 6 - 15 ngày bệnh nhân đột ngột ho tăng lên, đau tăng lên. Ho dữ dội và ộc ra rất nhiều mủ (hàng trăm ml), mủ đặc quánh màu vàng hoặc nhầy màu vàng, lổn nhổn những cục mủ tròn mùi hôi thối. Vã mồ hôi, mệt lả. Sau đó hết sốt, dễ chịu, ăn ngủ được. Giai đoạn ộc mủ cần đề phòng mủ tràn vào đường thở gây ngạt thở.
Có thể ho ra máu hoặc khạc ra ít mủ nhiều lần trong ngày (khái mủ). Quan sát đại thể mủ khạc ra để sơ bộ có chẩn đoán nguyên nhân: mủ màu vàng thường do tụ cầu; mủ màu xanh do liên cầu; mủ màu Socola do amip; mủ thối và có những cục hoại tử đen do vi khuẩn kỵ khí.
Giai đoạn ổ mủ thông với phế quản: Bệnh nhân vẫn ho dai dẳng, nhất là khi thay đổi tư thế và khạc mủ số lượng ít hơn.
Khám phổi thường biểu hiện không đặc hiệu, có thể biểu hiện giống như đông đặc phổi, hoặc viêm phổi; Chụp phim X-quang phổi, hoặc phim cắt lớp vi tính sẽ giúp định hướng chẩn đoán.
Áp xe phổi là tình trạng hoại tử nhu mô phổi do căn nguyên nhiễm trùng.
3. Áp xe phổi có lây không?
Bệnh áp xe phổi là một căn bệnh thường bắt nguồn từ các loại vi khuẩn, chính vì vậy mà nguy cơ lây lan bệnh có thể xảy ra dễ dàng, đặc biệt là thông qua đường hô hấp. Người bệnh có thể bị áp xe phổi thông qua việc hít phải các vi khuẩn từ không khí vào cơ thể hoặc từ những tiếp xúc tới tai mũi họng do thủ thuật phẫu thuật, các chất tiết nhiễm trùng từ răng miệng và mũi họng, phẫu thuật đặt nội khí quản, có dị vật trong đường thở hoặc bị trào ngược dạ dày...
Bên cạnh đó, bệnh áp xe phổi cũng có thể bị lây truyền thông qua đường máu (viêm tĩnh mạch, nhồi máu, viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng huyết...) hoặc thông qua đường kế cận (các áp xe ở gan, cơ hoành, đường mật, thực quản... phát triển đến mức vỡ ra sẽ lây lan tới phổi).
4. Cách phòng áp xe phổi
Mỗi cá nhân nên tự ý thức được mức độ nghiêm trọng của bệnh áp xe phổi và thực hiện các biện pháp sau nhằm phòng ngừa cũng như giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh:
Luôn giữ răng miệng cũng như tai mũi họng sạch sẽ tránh vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể.
Nên chữa trị dứt điểm các bệnh lý có liên quan đến đường hô hấp (tai mũi họng hay răng miệng).
Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng để có một sức khỏe tốt, chống chọi được các loại vi khuẩn virus gây hại cho cơ thể. Đồng thời cũng nên tạo thói quen tập luyện thể dục thể thao để nâng cao sức đề kháng.
Chú ý không để các dị vật rơi vào cổ, vì hệ hô hấp sẽ có nguy cơ bị nhiễm khuẩn.
Lập tức liên hệ với các y bác sĩ có chuyên môn để trợ giúp khi có những dấu hiệu bất thường do áp xe phổi gây ra.
5. Cách điều trị áp xe phổi
Điều trị áp xe phổi cần sự phối hợp của nhiều biện pháp, phương pháp điều trị bệnh cụ thể như sau:
Điều trị nội khoa bằng thuốc kháng sinh. Dẫn lưu ổ áp xe bằng cách dẫn lưu tư thế vỗ rung lồng ngực, hút mủ ở phế quản, dẫn lưu ổ áp xe bằng phương pháp nội soi phế quản ống mềm. Phương pháp nội soi phế quản còn giúp phát hiện các tổn thương làm tắc nghẽn phế quản hoặc gắp bỏ dị vật trong phế quản nếu có...
Điều trị phẫu thuật: Khoảng 10% trong số tổng các ca áp xe phổi được bác sĩ chỉ định thực hiện can thiệp ngoại khoa. Chủ yếu là tiến hành phẫu thuật để cắt phân thùy phổi hoặc cắt 1 bên phổi tùy vào mức độ tổn thương.
Điều trị hỗ trợ, áp dụng chế độ ăn uống, nghỉ ngơi khoa học: Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và năng lượng cho cơ thể người bệnh, đặc biệt là bổ sung thêm protein và vitamin. Bổ sung nước đầy đủ, duy trì cân bằng nước và điện giải, cân bằng toan kiềm. Giảm các triệu chứng đau, sốt của bệnh.
Nếu cần thiết nên sử dụng liệu pháp thở oxy nhằm hỗ trợ hô hấp cho người bệnh. Nếu là suy hô hấp cấp thì cung lượng khoảng 6 lít/phút, còn suy hô hấp mạn thì thở oxy với cung lượng thấp hơn, khoảng 2 lít/phút.
Người lớn có cần tiêm nhắc vaccine sởi? Người lớn chưa có miễn dịch với sởi vẫn cần tiêm phòng để bảo vệ sức khỏe bản thân và trẻ em thường xuyên tiếp xúc. Em và chồng năm nay 30 tuổi, đều chưa từng tiêm vaccine sởi nhưng đang sống trong khu vực có trẻ mắc bệnh. Con trai em năm nay 13 tháng tuổi, đã tiêm một mũi vaccine sởi...