20 dấu hiệu nhận biết đứa trẻ tài năng
Có sự đam mê cháy bỏng về khoa học hoặc văn học; thể hiện khả năng đặc biệt về diễn đạt trong nói và viết; có khả năng tốt về trừu tượng hóa, khái niệm và tổng hợp…, đó là những dấu hiệu nhận biết đứa trẻ tài năng.
“Liệu con tôi có tài năng gì không?” là câu hỏi mà phụ huynh thường đặt ra. “Có tài năng” là như thế nào? Định nghĩa của thuật ngữ này khác nhau ở các trường học, tổ chức và nền văn hóa. Một số người sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người có chỉ số IQ cao hơn mức trung bình trong khi một số khác cho rằng phải được xét trên nhiều tiêu chí hơn.
Ảnh: Popsugar
Hiệp hội quốc gia về trẻ tài năng Mỹ (NAGC) đưa ra định nghĩa như sau: “Cá nhân có tài năng là những người chứng minh được sự nổi bật về khả năng (được định nghĩa như một khả năng đặc biệt về lý luận và tìm hiểu), hay năng lực (thành tích hay hiệu suất được ghi nhận nằm trong tốp 10% hoặc cao hơn) trong một hoặc nhiều lĩnh vực. Lĩnh vực bao gồm những hoạt động có hệ thống ký hiệu riêng (ví dụ toán, âm nhạc, ngôn ngữ) và/hoặc bộ kỹ năng giác quan – vận động (ví dụ vẽ, nhảy múa, thể thao)”.
Theo Popsugar ngày 28/9, kiểm tra trình độ IQ và các đánh giá khác có thể giúp xác định trẻ có tài năng ở độ tuổi đi học. Nhưng trẻ cũng thường được xác định có tài năng hay không qua những quan sát của gia đình, thầy cô và bạn bè.
Dưới đây là một số đặc điểm đặc trưng của những đứa trẻ có tài năng về khả năng trí tuệ, được đưa ra bởi Austega, công ty dịch vụ thông tin của Australia.
Học một cách nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả.
Có vốn từ vựng đặc biệt phong phú so với tuổi của trẻ.
Thể hiện khả năng lý luận khác thường.
Có bộ nhớ tốt khác thường, nhưng không thích việc học thuật và ghi nhớ.
Hiếm khi cần những kiểm soát từ bên ngoài – áp dụng tự kỷ luật.
Có sở thích về cấu trúc, trật tự và nhất quán.
Linh hoạt trong suy nghĩ mô hình; có những liên tưởng lạ từ những ý tưởng hiếm gặp.
Thể hiện sự rất hiếu kỳ với các đối tượng, tình huống, hoặc sự kiện; đặt những câu hỏi gây tò mò.
Video đang HOT
Đạt điểm cao trong hầu hết môn học.
Có khả năng tập trung cao và chú ý đặc biệt vào một vấn đề.
Đưa ra những câu trả lời rất nhanh cho các câu hỏi.
Nhanh nhẹn và giải quyết vấn đề nhanh chóng bằng phương pháp khéo léo.
Có sự đam mê cháy bỏng về khoa học hoặc văn học.
Thể hiện khả năng đặc biệt về diễn đạt trong nói và viết.
Có khả năng tốt về trừu tượng hóa, khái niệm và tổng hợp.
Kiềm chế cảm xúc tốt.
Có xu hướng làm chủ tình huống và lãnh đạo trẻ cùng trang lứa.
Sử dụng trí khôn, suy nghĩ cơ bản, thông thường cần thiết trong cuộc sống.
Thể hiện sự sẵn sàng chấp nhận những thách thức.
Có suy nghĩ cởi mở về môi trường sống của mình.
Theo VNE
Việt Nam đứng thứ 82 chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu
Việt Nam xếp hạng 82 thế giới, thứ 5 khu vực Đông Nam Á và thứ chín trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp về chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu.
Theo một báo cáo dài 346 trang mới được công bố tại Davos, Thuỵ Sỹ, Việt Nam xếp hạng 82 thế giới, thứ 5 khu vực Đông Nam Á và thứ chín trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp (lower middle income countries) về chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu (GTCI - Global Talent Competittiveness Index) năm 2015.
Top 10 thế giới về chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu GTCI 2015. Nguồn trích từ báo cáo GTCI 2015.
So với kết quả năm 2014, thứ hạng GTCI của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á và giữa các nước có mức thu nhập trung bình thấp không thay đổi, nhưng trên bảng xếp hạng chung toàn thế giới, Việt Nam bị tụt 7 bậc.
Việc tụt hạng này phần nhiều do nhóm tác giả đã mở rộng phạm vi đánh giá từ 93 nước (năm 2014) thành 109 nước (năm 2015). Bảy nước mới tham gia vào khảo sát năm nay gồm: Malta, Cyprus, Bosnia, Montenegro, Serbia, Georgia và Barbados.
Xét về điểm số, thậm chí kết quả GTCI của Việt Nam còn tăng 4% từ 36,45 lên 37,73. Nhưng kết quả tăng này không ấn tượng bằng nước hàng xóm Malaysia trong khu vực (điểm GTCI tăng 8%) hay Phillipines (điểm GTCI tăng 6%).
Tại Khu vực Đông Nam Á, Singapore tiếp tục dẫn đầu, đồng thời ổn định ở vị trí thứ hai thế giới với 71,46 điểm GTCI.
Kết quả chỉ số GCTI tại 5 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á năm 2014-2015. Nguồntrích từ báo cáo GTCI 2015.
Để có kết quả GCTI cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp từ 61 chỉ số thành phần. Trong đó, một số chỉ số do nhóm trực tiếp thực hiện thu thập dữ liệu. Số còn lại, nhóm lấy từ những nghiên cứu trước đó của các tổ chức uy tín như Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), World Bank, UNESCO, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) ....
GTCI là báo cáo thường niên được các nhà nghiên cứu đến từ Viện Quản trị Kinh doanh Châu Âu (Institut européen d'administration des affaires - INSEAD), Viện Lãnh đạo Vốn nhân lực (Human Capital Leadership Institute, Thuỵ Sỹ) và Tập đoàn Adecco (tập đoàn Thuỵ Sỹ chuyên hoạt động trong lĩnh vực cung cấp nguồn nhân lực) phối hợp thực hiện, bắt đầu triển khai từ năm 2013.
61 chỉ số thành phần lại được ghép thành 6 nhóm chỉ số chính bao gồm: 4 chỉ số đầu vào (Input): Điều kiện (enbale), Thu hút (attract), Phát triển (grow), Duy trì (retain) và 2 chỉ số đầu ra (output): Lao động và Kỹ năng nghề (labour and vocational skills) và kỹ năng tri thức toàn cầu (Global Knowledge Skills). Điểm GTCI cuối cùng là điểm trung bình của 6 nhóm chỉ số này.
Kết quả không bất ngờ
Kết quả chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu 2015 có thể nói không gây bất ngờ với giới chuyên môn. Các nước đứng đầu bảng xếp hạng là Thuỵ Sỹ, Singapore, Luxembourg, Hoa Kỳ, Đan Mạch đều thuộc nhóm có mức GDP đầu người cao nhất thế giới.
Ở chiều ngược lại, những nước xếp cuối bảng xếp hạng như Mali, Tazania, Ethiopia, Burkina Faso hay Madagascar đều thuộc nhóm có mức GDP đầu người thấp nhất thế giới. Chỉ có một vài trường hợp ngoại lệ như Algeria, Kuwait, Qatar có vẻ điểm GTCI không tương quan với GDP đầu người.
Việt Nam đứng thứ 82 thế giới với GTCI 37,73 điểm, nhỉnh hơn mức trung bình của các nước có mức thu nhập trung bình thấp (lower middle income countries) một chút.
Điểm thành phần GTCI 2015 của Việt Nam (màu tím đậm) so với điểm thành phần trung bình GTCI 2015 của các nước có thu nhập trung bình thấp (màu tím nhạt). Nguồn trích từ báo cáo GTCI 2015.
Xét từng điểm thành phần, Việt Nam đạt 53,03 điểm Điều kiện (enable), xếp thứ 63 thế giới; 43,50 điểm Thu hút (Attract), xếp thứ 82 thế giới; 34,73 điểm Phát triển (Grow), xếp thứ 87 thế giới; 37,45 điểm Duy trì (retain), xếp thứ 89 thế giới; 26,79 điểm Lao động và Kỹ năng ghề (Labour and Vocational Skills), xếp thứ 89 thế giới; 30,87 điểm Kỹ năng tri thức toàn cầu (Global Knowledge Skills), đứng thứ 52 thế giới.
Câu hỏi đặt ra, chúng ta có thể ứng xử và sử dụng kết quả GTCI như thế nào?
Thứ nhất, mặc dù vẫn còn một số nhược điểm, nhưng có thể nói báo cáo GTCI là tài liệu vô cùng hữu ích. Đúng như lời dẫn nhập của nhóm tác giả báo cáo: Toàn cầu hoá đang ngày càng sâu, sự di động của tài năng ngày càng trở thành yêu tố quan trọng tới sự năng động, sáng tạo và cạnh tranh (của tổ chức/ của quốc gia).
Trong bối cảnh đó, báo cáo xếp hạng GTCI ra đời như một "phong vũ biểu" đo đếm kịp thời, chi tiết và đa diện; đồng thời cho phép đối sánh từ năng lực (4 chỉ số đầu vào input) cho đến kết quả (2 chỉ số đầu ra output) cạnh tranh tài năng của Việt Nam so với 108 nước trên thế giới.
Các nhà quản lý, hoạch định chính sách từ vĩ mô đến cơ sở ở nước ta nên sử dụng báo cáo làm dữ liệu đầu vào cho việc ra quyết định, cũng như hoạch định chính sách trong thời gian tới.
Thứ hai, báo cáo cũng có vẻ như bắt khá "đúng bệnh" của Việt Nam. Ví dụ, trong các điểm thành phần, điểm có thứ hạng cao nhất là Kỹ năng tri thức toàn cầu (cao hơn mức trung bình của các nước thu nhập trung bình thấp) và điểm thấp nhất là Lao động và Kỹ năng nghề (thấp hơn hẳn mức trung bình của các nước thu nhập trung bình thấp).
Từ lâu, chúng ta luôn có cảm nhận chung là Việt Nam bị thiếu trầm trọng lực lượng lao động có kỹ năng nghề thành thạo và ở chiều ngược lại, ở một vài khía cạnh, Việt Nam cũng đạt được thành tựu nhất định so với thế giới.
Vì vậy, chúng ta cần có kế hoạch ngay lập tức nhằm cải thiện các chỉ số có kết quả quá thấp, đồng thời lựa chọn trong những chỉ số có kết quả cao để đầu tư trọng điểm nhằm tạo lợi thế cạnh tranh bền vững của Việt Nam so với các nước; nhất là các nước trong khu vực Đông Nam Á hoặc các nước trong cùng nhóm thu nhập trung bình thấp.
Một số hạn chế của báo cáo GTCI 2015
Cũng như mọi nghiên cứu khác, báo cáo GTCI 2015 có một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, khá nhiều chỉ số con thuộc các chỉ số thành phần đã không được nhóm nghiên cứu truy cập đầy đủ. Ví dụ với riêng Việt Nam, báo cáo GTCI 2015 không có kết quả của chỉ số Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (chỉ số con thuộc chỉ số Điều kiện) hoặc chỉ số tỷ lệ người ở độ tuổi tương ứng theo học trường cao đẳng/trung cấp nghề. Mặc dù về nguyên tắc, các chỉ số này đều có thể truy cập được và có số liệu.
Thứ hai, báo cáo GTCI, trong nhiều trường hợp, hơi lạm dụng phương pháp thu thập dữ liệu bằng bảng hỏi. Ví dụ chỉ số chất lượng các trường đào tạo về quản lý (chỉ số con thuộc chỉ số Phát triển) sử dụng phương pháp bảng hỏi.
Trong nghiên cứu khoa học xã hội, việc sử dụng phương pháp bảng hỏi thường chỉ nên sử dụng trong một số trường hợp nhất định hoặc khi không thể tìm được phương pháp thay thế khác.
Theo Zing
Thần đồng 11 tuổi muốn làm đứa trẻ bình thường Cậu bé người Mỹ 11 tuổi có IQ 148 được học thẳng lên đại học, nhưng nam sinh này lựa chọn học đúng cấp và chơi với bạn bè cùng tuổi. Jaxon Cota ở thành phố McKinney, bang Texas, Mỹ, gia nhập Mensa - tổ chức dành cho những người thông minh nhất thế giới - từ năm 9 tuổi với IQ 148,...