Xây dựng chính sách giúp trường đại học vững cả đào tạo và nghiên cứu
Hiện nay, trong “2 chân” là đào tạo và nghiên cứu khoa học, các trường vẫn chú trọng chủ yếu là đào tạo; còn nghiên cứu khoa học, dù đã có cải thiện lớn trong thời gian qua, nhưng so với đào tạo thì vẫn yếu. Bởi vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khoa học công nghệ (KHCN) trong các cơ sở giáo dục đại học là cấp thiết.
Đây là ý kiến chung của nhiều nhà khoa học tại Hội thảo do Bộ GD&ĐT tổ chức ngày 25/4 tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
Đã đến lúc trường ĐH phải chú trọng đến công nghệ
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: VA
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cho hay, trong những năm qua, nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) đã có bước chuyển biến ban đầu tích cực. Minh chứng là so với 5 năm trước, số công bố quốc tế trong các cơ sở GDĐH của Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi, góp phần giúp xếp hạng khu vực, quốc tế của các trường tăng lên đáng kể.
Tuy vậy, theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, nếu so với yêu cầu, quy mô dân số, tốc độ phát triển kinh tế, thì phát triển GDĐH, trong đó có vị thế xếp hạng và vấn đề khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Điều này có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách và nguyên nhân từ ý thức về vai trò khoa học công nghệ trong phát triển nhà trường của chính các trường.
“Hiện nay, trong “2 chân” là đào tạo và nghiên cứu khoa học, các trường vẫn chú trọng chủ yếu là đào tạo; còn nghiên cứu khoa học, dù đã có cải thiện lớn trong thời gian qua, nhưng so với “chân” đào tạo thì vẫn yếu” – Thứ trưởng cho hay.
Sơ lược một số nguồn thu chính từ khoa học công nghệ trong các cơ sở GD ĐH (lấy khoa học để nuôi khoa học; từ ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ, thành lập các doanh nghiệp, công ty trong cơ sở GD ĐH; từ hợp tác mạnh với doanh nghiệp ở bên ngoài), Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho rằng, để thực hiện được điều này, nhất thiết phải thay đổi cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở GDĐH. Những hạn chế về nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hiện nay trong các cơ sở GD ĐH cũng cần sự khơi thông, thay đổi về chính sách.
Tại Hội thảo, 3 dự thảo văn bản được đưa ra để lấy ý kiến góp ý liên quan đến xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh; đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp (cho giảng viên); đầu tư phòng thí nghiệm gắn với chương trình nghiên cứu. Các ý kiến nhìn chung đánh giá cao sự cần thiết phải ban hành các văn bản trên và cho rằng, đây đều là những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nâng cao năng lực khoa học công nghệ của các cơ sở GD ĐH.
Video đang HOT
Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, với Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD ĐH, các cơ sở GD ĐH được tăng quyền tự chủ. Trên tinh thần đó, 3 văn bản nói trên của Bộ GD&ĐT sẽ là những văn bản khung, là cơ sở pháp lý để các trường thực hiện. Trên cơ sở đó, cơ sở GD ĐH phải chủ động ban hành văn bản nội bộ, phù hợp với điều kiện thực tế của trường.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: VA
Cần sớm có chính sách đủ mạnh thúc đẩy nhóm nghiên cứu trong trường ĐH
Là Trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng Ban Đào tạo ĐHQG Hà Nội – cho biết: Nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát 216 giảng viên ở 40 trường ĐH, viện nghiên cứu trên cả nước. Kết quả cho thấy có 58,8% khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy – nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường ĐH, hiện nay trong hệ thống các trường ĐH đã hình thành 945 nhóm nghiên cứu, một trường ĐH có trung bình 7 nhóm nghiên cứu.
Thông qua nhóm nghiên cứu, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Kết quả khảo sát ở ĐHQG Hà Nội cho thấy, 80% các nghiên cứu sinh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của trường, nhờ trưởng thành trong các nhóm nghiên cứu nên khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI. 100% các nhóm nghiên cứu ở ĐHQG Hà Nội có công bố quốc tế đều tham gia trong các nhóm nghiên cứu.
Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2.309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập (Trường ĐH Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng công bố quốc tế của 30 trường ĐH Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài. Con số này hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó (2011-2015), khi toàn Việt Nam mới có 10.034 bài. Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus của Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018) đã tăng gần 5 lần.
Bên cạnh kết quả đạt được, qua khảo sát về thực trạng phát triển, GS Nguyễn Đình Đức và nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy một số tồn tại, hạn chế chủ yếu của các nhóm nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam, đó là: Còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt nhóm nghiên cứu; số lượng công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu còn khá khiêm tốn; nguồn lực đầu tư cho các nhóm nghiên cứu còn hạn chế. Ngoài ra, về phía quản lý nhà nước, trường ĐH, còn thiếu chính sách cụ thể, đủ mạnh để hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường ĐH.
GS Nguyễn Đình Đức kiến nghị, cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường ĐH hiện nay. Các chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để phân loại các nhóm nghiên cứu; cần được lưu ý theo hướng ở lĩnh vực khoa học khác nhau thì cần có tiêu chí đánh giá và hỗ trợ đầu tư khác nhau; đồng thời, khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho nhóm nghiên cứu cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất./.
Mỹ Anh
Theo cpv.org.vn
Tên gọi trường đại học phải bảo đảm sự trong sáng của ngôn ngữ
Cơ sở giáo dục đại học không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của cơ sở giáo dục đại học khác đã thành lập hoặc đăng ký.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Nghị định này quy định chi tiết về tổ chức và quản lý của cơ sở giáo dục đại học; hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và một số hoạt động khác của cơ sở giáo dục đại học. Văn bản cũng áp dụng với trường đại học, học viện, đại học và tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục đại học.
Việc đặt tên, đổi tên cơ sở giáo dục đại học được quy định chi tiết. Tên cơ sơ giáo dục đại học gồm: cụm từ xác định loại cơ sở (đại học, trường đại học, học viện); cụm từ xác định lĩnh vực, ngành nghề đào tạo (nếu cần); tên riêng bao gồm tên địa phương, tên danh nhân văn hóa, lịch sử, tên cá nhân, tổ chức.
Nguyên tắc đặt tên là không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của cơ sở giáo dục đại học khác đã thành lập hoặc đăng ký, bảo đảm sự trong sáng của ngôn ngữ. Việc đặt tên không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Tên của cơ sở giáo dục đại học phải bằng tiếng Việt, kèm tên giao dịch quốc tế được xác định trong quyết định thành lập hoặc quyết định đổi tên. Việc đổi tên của cơ sở giáo dục đại học được thực hiện trong trường hợp cần thiết, đồng thời phải bảo đảm các quy tắc trên.
Trước đó, nguyên tắc đặt tên trường đại học được quy định tại Điều lệ trường đại học ban hành kèm theo Quyết định 70 năm 2014 của Thủ tướng. Ngoài cụm từ xác định loại trường, ngành nghề lĩnh vực, tên riêng còn có cụm từ xác định chất lượng, đẳng cấp nếu thấy cần thiết.
Khu đô thị Đại học Quốc gia TP HCM với trụ sở chính và các trường thành viên. Ảnh: Quỳnh Trần.
Dự thảo nghị định trên cũng hướng dẫn cụ thể các thủ tục chuyển trường đại học thành đại học với các điều kiện cần thiết gồm: trường đại học đã đạt chuẩn kiểm định chất lượng; ít nhất năm trường thuộc trường đại học được thành lập đúng quy định; có nghị quyết của hội đồng trường.
Ngoài ra, sự chuyển đổi này cần có ý kiến chấp thuận của cơ quan quản lý trực tiếp trường đại học đối với trường đại học công lập; có sự đồng thuận của các nhà đầu tư đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp đối với trường đại học tư thục; văn bản chấp thuận của UBND cấp tỉnh nơi có trụ sở chính của trường.
Tương tự, điều kiện để liên kết các trường đại học thành đại học gồm: có ít nhất ba trường đại học đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học tham gia liên kết; các trường phải cùng loại hình, trừ trường hợp trường đại học tư thục và trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận liên kết thành đại học tư thục không vì lợi nhuận.
Dự thảo cũng có điều khoản chi tiết về cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu. Tiêu chí cho loại hình này gồm:
- Tỷ lệ chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ không dưới 50% tổng số chương trình đào tạo cấp bằng; quy mô người học trình độ thạc sĩ, tiến sĩ không ít hơn 25% tổng quy mô đào tạo và cấp tối thiểu 20 bằng tiến sĩ/năm;
- Tỷ trọng nguồn thu từ các hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu, chuyển giao không thấp hơn 25% tổng thu của cơ sở giáo dục đại học.
- Công bố tối thiểu 100 bài báo ISI/Scopus/năm trong toàn cơ sở giáo dục đại học và đạt tỷ lệ trung bình 0,3 bài/năm/giảng viên trong ba năm gần nhất.
- Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên không quá 20; tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 50% tổng số giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học .
Dự thảo cũng quy định trình độ đào tạo chuyên sâu đặc thù, khối lượng học tập từ 150 tín chỉ trở lên đối với người đã tốt nghiệp trung học phổ thông và tương đương hoặc đã tốt nghiệp chương trình đào tạo định hướng nghề nghiệp đối với người đã có bằng cử nhân.
Mạnh Tùng
Theo VNE
Nam sinh Mỹ vượt lên cơ cực, trúng tuyển 17 trường đại học Dylan Chidick cùng mẹ và 2 em trai lâm vào cảnh vô gia cư từ năm 2017. Chàng trai vẫn nỗ lực học tập và được 17 đại học gửi giấy báo trúng tuyển. Theo Zing