Vương gia triều Thanh và cuộc sống xa hoa đến mức điên loạn khiến hậu thế choáng váng
Đằng sau cánh cửa Tử Cấm Thành, ngoài những câu chuyện về Hoàng thượng, Hoàng hậu và các phi tần thì sự giàu sang của các bậc Vương gia nhà Thanh cũng khiến người đời không khỏi kinh ngạc, không ít thú vui, hưởng lạc xa xỉ tới mức điên loạn…
Những đặc quyền đặc lợi khủng khiếp
Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các tước hiệu đều do con trai trưởng của nhà quý tộc thừa kế, nhưng bị giáng xuống một cấp. Tuy thế, vẫn có ngoại lệ khi Hoàng đế phê chuẩn cho một tước hiệu được cha truyền con nối, và đây là một vinh dự rất lớn cho người mang tước hiệu.
Hoàng tộc nhà Thanh chia thành “Tông Thất” và “Giác La”, những người có dòng m.áu Hoàng tộc. Cụ thể, Tông Thất là những người đeo dây lưng vàng “Kim hoàng thinh đái”, bao gồm các con cháu trực hệ của Hoàng đế, bắt đầu từ con cháu của Thanh Hiển Tổ Tháp Khắc Thế, tức là con cháu hoặc cháu anh em của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Từ đó, những Hoàng tử là con cháu thế hệ trực tiếp của Hoàng đế đều mang Hoàng đái tử.
Về phần “Giác La” là những người đeo dây lưng đỏ “Hồng thinh đái”, gồm con cháu của các anh em thúc bá của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đây có thể xem là dòng dõi xa của Hoàng thất.
Tông Thất có địa vị cao hơn Giác La và có nhiều ưu đãi hơn trong việc phong tước, bổ nhiệm chức vụ. Điển hình chính là việc Giác La không thể được phân tước hiệu hoàng tộc “Nhập Bát phân công”, mà đều chỉ có thể hưởng tước của quý tộc bình thường. Tước vị quý tộc Mãn Thanh cho nam giới Tông Thất, tức hậu duệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích hoặc hậu duệ của anh em cùng cha của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đều chia ra hai hạng Nhập Bát phân và Bất nhập Bát phân, cơ bản có 12 tước vị cùng 2 tước vị đặc thù.
Căn cứ theo Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ, lương bổng của các tước vị trên đều là theo năm. Trong đó, người hưởng bổng lộc cao nhất là tước vị Tông Thất – Hòa Thạc Thân vương với 10.000 lạng bạc/năm và 10.000 hộc gạo/năm. Nếu quy đổi ra đơn vị t.iền tệ của Trung Quốc ngày nay, đãi ngộ của họ tương ứng với mức thu nhập lên tới xấp xỉ 6 triệu nhân dân tệ.
Mức bổng lộc này đối với những người ở phẩm cấp thấp hơn Thân vương là các Quận vương cũng lên tới con số 3 triệu Nhân dân tệ. Cấp thấp nhất trong hàng ngũ Vương gia là Phụng ân Tướng quân cũng có mức bổng lộc là 110 lượng bạc/năm và 110 hộc gạo/năm.
Về lương bổng phụ nữ Hoàng tộc đời Thanh thì tương đối đơn giản hơn, chia ra hai dạng là gả ở kinh sư và gả đi ngoại phiên (tức gả đi lấy các Vương công thuộc về Mông Cổ Minh kỳ). Khi gả trong kinh sư, Cố Luân Công chúa mỗi năm lãnh 400 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 300 lượng bạc, lại còn ban thêm số hộc gạo tương ứng. Khi gả xa, Cố Luân Công chúa tăng lên 1.000 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 400 lượng bạc, đổi gạo thành lụa là gấm vóc.
Nhìn chung tước vị Cố Luân Công chúa là lớn nhất và lương bổng các Tông nữ khác đều thấp hơn rất nhiều trung bình Tông Thất nam giới. Những Tông nữ không được phong, không có bổng lộc, trong một số tình huống đặc thù có thể xin trợ cấp như quả phụ hoặc mồ côi, một tháng được 2 lượng bạc.
Ngạch phò (chồng của các công chúa) tuy cũng có lương bổng, nhưng đều chưa đến 500 lượng bạc. Từ năm Càn Long thứ 36 (1771), Ngạch phò của những Tông nữ thuộc hậu duệ của Thuận Trị Đế trở về sau mới có bổng lộc, còn những Ngạch phò của Tông nữ thuộc những chi hệ khác thì chỉ có tước vị mà không có bổng lộc. Tương tự với việc “Nội mệnh phụ” là tước vị thuộc về nhà chồng thì “Ngạch phò” cũng là tước vị thuộc về Tông nữ và Hoàng thất. Sau khi Tông nữ qua đời, nếu Ngạch phò không cưới vợ kế thì có thể giữ lại tước vị, một khi đã tái giá thì mọi tước vị và đãi ngộ đều lập tức hủy bỏ.
Từ đó có thể thấy, việc chảy trong mình dòng m.áu hoàng tộc đã khiến tầng lớp này nhận được mức đãi ngộ “trên trời” và thậm chí chỉ đứng sau Hoàng đế.
Sa đọa trong ăn chơi, hưởng lạc
Không phải nghiễm nhiên mà những Vương gia triều Thanh lại được hưởng mức đãi ngộ cao ngất ngưởng như vậy. Nhiều người cho rằng, lý do nằm ở việc Hoàng đế vì muốn củng cố quyền lực của mình nên dĩ nhiên sẽ không để cho các nhánh khác trong Tông thất có cơ hội lớn mạnh, luôn cảnh giác với họ. Bất cứ lúc nào Hoàng đế cũng sẵn sàng dập tắt mưu toan gây dựng cơ đồ riêng của các Vương gia.
Do đó, cách giải quyết tốt nhất cho vấn đề này chính là ban thật nhiều bổng lộc để họ chìm trong hưởng lạc. Đồng thời, Hoàng đế nhà Thanh cũng nghĩ ra cách tập trung toàn bộ các Vương gia ở tại kinh thành, bề ngoài thì ban cho họ một tòa vương phủ rộng lớn nhưng thực chất lại giống như giam giữ những thành viên hoàng tộc ấy trong lồng son. Một khi không có chỉ dụ từ Hoàng đế, các Vương gia sẽ chẳng có cơ hội rời khỏi kinh thành. Thậm chí có những người cả đời chỉ quẩn quanh trong kinh đô, ngay tới việc du ngoạn tứ phương cũng chỉ là mộng tưởng.
Bởi vậy, cuộc sống của các Vương gia thời nhà Thanh chỉ quanh quẩn ở 3 phương diện là ăn, uống và tiêu khiển, đúng nghĩa “Ăn uống hưởng lạc”. Trong số đó, phương diện đầu tiên được họ chú trọng hơn cả chính là ẩm thực. Người Trung Quốc vốn có câu “dân dĩ thực vi thiên”, ý nói bách tính lấy ăn làm đầu, các vương gia thời bấy giờ cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, khác với những bữa ăn của dân thường chỉ nhằm no bụng, đối với các Vương gia thì họ đã đưa ẩm thực lên một mức độ cầu kỳ và xa xỉ hơn rất nhiều.
Mỗi món ăn của tầng lớp ấy đều cần tới các nguyên liệu sơn hào hải vị với mức giá trên trời. Ví dụ như nấu món canh gà hầm, đầu bếp trong vương phủ cũng phải lựa chọn gà ác quý hiếm nấu cùng tùng nhung – loại nấm được xem là đắt đỏ nhất. Dụng cụ dùng bữa của các vương gia thường được tạo tác từ bạc, nếu quý giá hơn sẽ dùng ngọc mà chế thành. Mỗi bữa ăn được coi là “giản dị” đó của Vương gia triều Thanh cũng tiêu tống một lượng tài vật khó mà kiểm đếm.
Phương diện thứ hai được các vương gia Thanh triều chú trọng chính là thức uống. Đây cũng là một phương diện đã khiến Vương gia Thanh triều tốn không ít tâm tư. Vào thời đại bấy giờ, để có thể làm mát đồ uống giữa những ngày hè oi bức, các Vương gia sẽ bỏ ra một số bạc khổng lồ để chế tạo phòng băng trong phủ. Họ sẵn sàng bỏ một số t.iền lớn để có đượ các loại “ xe băng” chỉ để đông lạnh những nguyên liệu chế tạo đồ uống, mà trái cây là một trong số đó.
Sau khi đã đáp ứng được những yêu cầu về phương diện ăn uống, các vương gia nhà Thanh lại hao tâm tổn trí để sáng tạo ra các thú tiêu khiển mới. Thú vui đơn giản và phổ biến nhất vào thời bấy giờ chính là ngắm hoa, câu cá, săn thú. Tuy nhiên khi đã nhàm chán với những việc này, họ sẽ chuyển sang một trò tiêu khiển khác có phần thú vị hơn đó là nuôi dế, chọi dế.
Vào thời nhà Thanh, chọi dế vốn là trò chơi giải trí hết sức thịnh hành của giới quý tộc. Điểm đáng nói nằm ở chỗ, một con dế quý cũng có thể sở hữu mức giá trên trời. Ngay từ đồ đựng dế, lồng nuôi dế cũng phải do những thợ mộc cao tay đích thân chế tạo, và giá trị của chúng vốn là thứ mà thường dân bách tính khó có thể tưởng tượng nổi.
Chưa dừng lại ở đó, các vương gia thời bấy giờ còn sẵn sàng bỏ ra cả đống của cải để thiết kế những hoa viên hoặc lâm viên tại gia để thưởng ngoạn, cũng có khi sẽ mời bằng hữu tới đây uống rượu, vui đùa.
Nhiều người cho rằng, cũng chính bởi lối sống xa xỉ thành quen ấy mà tới cuối thời nhà Thanh, một số vị vương gia hết thời vì không cáng đáng nổi số t.iền chi tiêu khổng lồ nên đã rơi vào cảnh túng quẫn tới mức phá sản.
Sự thật ít ai biết về Tử Cấm Thành: Lãnh cung là có thật? Bóng người nhảy múa trong điện Thái Hòa?
Cố Cung Bắc Kinh hay còn được gọi là Tử Cấm Thành, là cung điện của 24 triều vua từ giữa nhà Minh đến cuối nhà Thanh, được xây dựng vào năm thứ 4 đời Minh Thành Tổ. Trong suốt 600 năm lịch sử, Cố Cung đã mang theo nhiều thăng trầm và những bí mật phong phú trường tồn với thời gian.
Tử Cấm Thành không sợ động đất 10 độ richter
Kể từ khi xây dựng xong, Tử Cấm Thành đã trải qua hơn 200 trận động đất, trong đó có trận động đất kinh hoàng nhất thế kỷ 20. Vào năm 1976, trận động đất Đường Sơn đã g.iết c.hết 240.000 người trong vòng 23 giây, phá hủy toàn bộ biên giới phía bắc Đường Sơn cách đó 150 km chỉ trong một đêm. Mặc dù trải qua trận động đất cực mạnh khiến nhiều ngôi nhà bị nứt và sập, nhưng Tử Cấm Thành vẫn bình yên vô sự.
Để tìm ra nguyên nhân, các chuyên gia đã sao chép mô hình kiến trúc Tử Cấm Thành, sau đó thử nghiệm mô phỏng trận động đất có cường độ 10,1 độ richter. Trong cơn địa chấn, biên độ rung lắc của mô hình ngày càng lớn, khiến các viên gạch bên trong lần lượt sụp đổ nhưng phần khung vẫn đứng vững chãi. Sau vài lần thử nghiệm các chuyên gia đã rút ra kết luận, nguyên nhân nằm ở các trụ không bị chôn sâu xuống đất và việc không cắm phần gốc này xuống quá sâu đã đảm bảo tính linh hoạt cho tổng thể cung điện, đồng thời không để cột nhà bị gãy đột ngột.
Để đảm bảo độ kiên cố của Cố Cung, thì đấu củng (một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu) cũng góp một phần vô cùng quan trọng hỗ trợ nâng đỡ mái nhà một cách khéo léo. Kiến trúc này không cần đinh hay bất kỳ chất kết dính nào, vừa có thể chịu trọng lực và tích hợp chặt chẽ với tòa nhà, vừa có một khoảng không gian linh hoạt.
Phần mái kiên cố đóng vai trò là sự cân bằng tổng thể về sức mạnh, làm cho các bộ phận còn lại như được "tận dụng lẫn nhau" nhằm tiêu trừ bớt gánh nặng. Đây cũng chính là bí mật giúp Tử Cấm Thành "sống sót" qua vô số trận động đất kinh thiên động địa.
"Lãnh Cung" rốt cuộc có thật hay không?
Trong các bộ phim cung đấu xoay quanh chuyện phi tần tranh giành sự sủng ái của Hoàng thượng, không thiếu những phân cảnh với lời thoại như: "Đầy vào Lãnh Cung". Vậy Tử Cấm Thành thực sự có tồn tại Lãnh Cung hay chỉ là trên phim ảnh?
Theo sử sách ghi lại, Lãnh Cung thực chất là nơi ở khi các phi tần bị thất sủng hoặc phạm tội không thể tha thứ, thường sẽ ở nơi hoang vắng và ít người lui đến. Lập luận thứ hai cho rằng Lãnh Cung không có "địa chỉ" cố định, chỉ cần là nơi ở của thê thiếp hoặc Hoàng tử không nhận được sự sủng ái của Hoàng thượng nữa liền có thể trở thành Lãnh Cung.
Trong các bộ phim thể loại cung đấu Trung Quốc thường xuất hiện lãnh cung hoặc tình tiết một vài phi tần nào đó bị đẩy vào lãnh cung. Nói một cách dễ hiểu, điều này tương đương với việc phi tần phải sống cuộc đời bị ghẻ lạnh, nhận một bản án "tù chung chân".
Những phi tần bị đẩy vào lãnh cung dù không phải đeo gông cùm, xiềng xích thì chẳng khác gì vào nhà lao. Họ không có người nói chuyện, không kẻ hầu người hạ, không cao lương mỹ vị, cơm ăn hàng ngày cũng là loại đơn giản nhất dành cho cung nữ, người hầu.
Khắp nơi họ ở đều bị ẩm mốc, toàn tro bụi. Hầu hết các phi tần vào lãnh cung đều không cam tâm tình nguyện, họ ai oán thấu trời, liên tục gào thét, dần sẽ hóa điên rồi t.ự t.ử, phần lớn sẽ không có kết cục tốt đẹp.
Những gì các phi tần trải qua sẽ để lại dấu vết tại lãnh cung, từ vết cào cấu trên tường, vết m.áu loang lổ trên cánh cửa, khung cửa sổ rách nát, bàn ghế xiêu vẹo không còn nguyên hình dạng... Những điều này khiến người ta dễ cảm thấy sợ hãi, ớn lạnh. Do đó, một nơi tràn ngập c.hết chóc, oán khí như thế không phải ai cũng chịu được nên không thích hợp để tham quan.
Lãnh cung vốn nằm ở nơi hẻo lánh, ít người lui tới, Hoàng đế, Hoàng hậu cũng chẳng bao giờ đặt chân đến đây. Nó còn là nơi chịu phạt của các phi tần nên càng không có cơ hội mà gìn giữ, tu sửa. Dưới sức mạnh tàn phá của thời gian, dần dần lãnh cung cũng sẽ bị mài mòn, từ gỗ đến những vết tường mỏng yếu, cuối cùng là khung kết cấu bằng đá.
Chẳng ai còn nhớ tới lãnh cung, mặc nó bị thời gian phá hủy. Mà thực tế, càng để lâu lại càng khó tu sửa, thế nên ngày nay những nơi từng được xem là lãnh cung trong Tử Cấm Thành rất nguy hiểm, không an toàn cho những khách tham quan.
Lãnh cung vốn là nơi bị ghẻ lạnh, quên lãng nên điều kiện vật chất kém, sinh hoạt cơ bản của các phi tần có khi còn không được đảm bảo, nói gì đến những đồ vật có giá trị lịch sử. Các phòng trong lãnh cung chỉ có sự lạnh lẽo, thê lương, không thích hợp để trưng những món đồ để chiêm ngưỡng. Do đó, lãnh cung không có giá trị thưởng lãm và cũng không thích hợp để khách tới tham quan.
Trong Tử Cấm Thành có nhà vệ sinh không?
Trong thời nhà Minh và nhà Thanh, không có nhà vệ sinh trong Hoàng cung, nếu muốn đi đại tiện các cung tần phải sử dụng bô. Trong đại điện sẽ dùng một tấm mành hoặc bình phong để ngăn cách với chiếc bô đại tiện, đồng thời trên nắp đậy được đổ đầy tro carbon, tro thực vật và hương liệu. Nơi đặt bô được gọi là "tịnh phòng", được phân bố ở mọi ngóc ngách trong cung.
Những chất thải trong ngày sẽ được các hoạn quan xử lý và vận chuyển ra khỏi cung. Vì vậy, trong Tử Cấm Thành không có mùi hôi. Đến nay, trong Tử Cấm Thành đã được xây dựng thêm nhà vệ sinh công cộng để phục vụ khách du lịch.
Cung điện lớn nhất thế giới
Tử Cấm Thành là cung điện lớn nhất trên thế giới, sự tồn tại của nó được coi là một kiệt tác kiến trúc được hoàn thành vào năm 1420 sau CN, cách đây hơn 600 năm. Để xây dựng được kiến trúc đồ sộ này đã phải huy động 230.000 nghệ nhân, hàng triệu công nhân và binh lính nhập cư.
Xưa kia, Hoàng đế tự xưng là "Thiên Tử" (con trời). Các sách cổ thường gọi cung của Thiên đế trên trời là Tử Cung, trong đó chữ "tử" (màu tím) đồng âm khác nghĩa với "con trời" cũng là "tử". Nơi ở của Hoàng đế thì dân thường bị "cấm" không được vào, vậy nên nơi ở của Hoàng đế được gọi là Tử Cấm Thành. Theo truyền thuyết, trong Tử Cấm Thành có 9999,5 gian phòng, bởi vì người xưa cho rằng chỉ có Hoàng đế mới xứng với con số 10.000 và khống chế được vạn vật, do đó mới bị thiếu một nửa gian phòng.
Điện Thái Hòa nằm trong Tử Cấm Thành là cung điện quan trọng nhất và cũng là biểu tượng quyền lực của hoàng đế Trung Quốc. Đây cũng là công trình bằng gỗ lớn nhất còn được bảo tồn tại Trung Quốc.
Điện Thái Hòa có nhiều tên gọi khác nhau. Vào thời nhà Minh, điện có tên là Phụng Thiên, đến thời Thuận Trị nhà Thanh, điện này đổi thành Thái Hòa. Trong dân gian, điện này có tên là Kim Loan.
Điện Thái Hòa nằm ở trung tâm trên trục Bắc - Nam của Tử Cấm Thành. Điện được hoàn thành vào năm Vĩnh Hòa thứ 18 (năm 1420). Sau khi bị phá hoại bởi hòa hoạn nhiều lần đến năm Khang Hy thứ 34 (năm 165) mới được xây dựng lại. Kiến trúc cổ đồ sộ này có chiều cao 35,05 m, diện tích 2 377 m2, gồm 55 gian khác nhau và 72 chiếc cột lớn. Điện được làm hoàn toàn bằng gỗ. 72 cột trong tòa điện là một trong những nét đặc biệt của kiến trúc này, được thiết kế nâng trọng lượng hơn 4 tấn của tòa điện Thái Hòa.
Đáng nói, trong điện Thái Hòa ẩn chứa câu chuyện rùng rợn về "bóng ma điên nhảy múa". Cho đến nay vẫn chưa lý giải được nguyên nhân.
Theo dân gian Trung Quốc truyền tai, ngày 8/7/1905 tức năm thứ 31 Quang Tự, một đội tuần tra đi tuần tam điện thì phát hiện ra cửa sổ hướng Đông tại gian phía Tây của điện Thái Hòa bị rơi ra.
Khi đội tuần tra dừng chân lắng nghe thì thấy rõ tiếng người nói qua lại. Họ liền bẩm báo sự việc lên cấp trên.
Đại thần tổng quản phủ nội vụ đã dẫn theo một đoàn kỵ binh bao vây điện Thái Hòa. Khi mở cửa điện ra thì thấy một người đàn ông đang nhảy múa trong điện.
Sau khi bắt người này và khám xét thì phát hiện có một con dao ngắn, một con dao nhỏ, một hầu bao bên trong đựng 2 hộp diêm, 9 đồng t.iền đồng, 1 tờ chi phiếu, 760 văn t.iền mặt, một tấm vải bọc màu vàng bên trong có miếng ngọc thạch bị sứt một miếng, một dây đai bằng vải màu tro, một cái áo khoác ngắn màu trắng bạc, một cái tẩu thuốc không có thân, một cây quạt, một điếu bát, một miếng đá màu tím và một chiếc khăn mùi xoa hoa tím.
Quan quân tiến hành thẩm vấn thì biết được người này là Giả Vạn Hải, 29 t.uổi người huyện Đại Hưng ngoại thành Bắc Kinh. Trong quá trình thẩm vấn người này có biểu hiện thần kinh không bình thường.
Sau khi bẩm báo Từ Hy Thái hậu và hoàng đế Quang Tự thì giao cho hình bộ tiếp tục điều tra. Trong suốt quá trình thẩm vấn, Giả Vạn Hải luôn tỏ ra ngây ngô, nói luyên thuyên, có dấu hiệu của người điên.
Sau một tháng tra hỏi vẫn không thu thập được gì có giá trị thì hình bộ quyết định hành quyết Giả Vạn Hải theo hình thức t.reo c.ổ.
Ngoài câu chuyện ma quái đầy ám ảnh ở điện Thái Hòa, người ta còn truyền tai nhau câu chuyện về "âm khí bao trùm nơi cung cấm". Theo đó, cứ 5 giờ chiều là thời điểm Tử Cấm Thành đóng cửa, đây là thời khắc âm khí trong cung nặng nhất.
Theo truyền thông Trung Quốc, vào thời điểm này, du khách đến thăm Tử Cấm Thành đều cảm nhận được. Đến 5h chiều, bầu không khí âm u, cảm giác lạnh lẽo.
Theo một lời đồn đại, trước kia nơi đây có bảo vệ trông đêm, con cái của người này luôn bệnh tật, đau ốm. Mọi người nói với anh ta rằng, vì anh ta canh đêm ở nơi có nhiều âm khí nên ảnh hưởng đến đời sau. Từ đó về sau, nơi này không có ai trông đêm nữa.
Đến nay, Tử Cấm Thành đã ngót nghét 600 năm t.uổi. Mỗi năm nơi đây phục vụ hàng chục triệu du khách tham quan đến từ nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, lãnh cung tại Tử Cấm Thành vẫn là địa điểm chớ lại gần. Thực tế, mọi người chỉ biết đến lãnh cung qua sử sách và phim truyện mà thôi.
Từ Hy Thái hậu cả đời không ăn 2 món thịt này, chỉ uống nước đun sôi 1 lần duy nhất, lý do là gì? Nếu nói tới những bậc nữ vương nổi tiếng trong triều đại Trung Hoa phong kiến thì tất nhiên không thể không kể tới Từ Hy Thái hậu. Bà sinh ngày 29/11/1835 -và mất ngày 15/11/1908 vào thời nhà Thanh. Từ Hy Thái hậu nổi tiếng vì sự xa hoa bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng, bà...