Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ cuối)
Theo lời khai của Patrice, cô chống lại kẻ hãm hiếp mình nhưng trên người nạn nhân không hề có dấu hiệu xây xước (ảnh minh họa)
“Anh có quyền giữ im lặng, bất kỳ điều gì anh nói có thể chống lại anh tại tòa”.
Phiên điều trần diễn ra rất căng thẳng vì những lời tranh luận của 2 bên. Nelson Gary luôn bảo vệ bản án của các phiên tòa trước đã tuyên dành cho Ernest vì ông tin rằng cảnh sát đã làm đúng. Dựa trên lời khai của Patrice, lại thêm việc chiếc xe ô tô màu xanh, đằng sau ghế trước có sợi dây buộc trùng hợp với miêu tả của nạn nhân cũng đủ cho thấy Ernest là nghi can số một. Việc cảnh sát tập trung điều tra nghi can duy nhất này là đúng đắn dù có sơ suất nhỏ là không thông báo các quyền của anh ta. Sơ suất này không hề làm ảnh hưởng tới bản chất của vụ án khi nghi can đã tự nguyện nhận tội mà không hề bị đánh đập hay ép cung.
Cuối cùng, viên chánh án Earl đã phải tự tay viết những quan điểm trái chiều của các bên và đề xuất phương án bỏ phiếu. 9 viên thẩm phán sẽ cân nhắc và bầu chọn quan điểm nào là đúng đắn hơn cả.
Và quan điểm của Flynn, Frank đã chiến thắng.
Theo đó, các vị thẩm phán cho rằng những người thi hành công vụ phải đảm bảo mọi nghi can được phổ biến và thông báo sao cho họ hiểu được các quyền do Hiến pháp quy định mà mình được hưởng. Sở cảnh sát trên khắp đất nước bắt đầu phải thông báo cho nghi can biết họ có quyền giữ im lặng, bất kỳ điều gì họ nói sẽ được sử dụng để chống lại họ trước tòa, và họ có quyền có luật sư. Nếu họ không có điều kiện mời luật sư, sẽ có một luật sư được chỉ định để bào chữa cho họ.
Quan điểm này (thường được biết tới với cái tên “quyết định Miranda”) được đưa ra công chúng vào ngày 13/6/1966. Nhờ đó, Ernest Miranda phát hiện ra vụ án của anh ta được đảo ngược lại thông qua việc xem tivi. Ernest, cũng như gia đình nhỏ của anh ta, nghĩ rằng anh sẽ được tự do. Họ vui mừng khôn xiết và chuẩn bị buổi tiệc ăn mừng.
Nhưng bang Arizona chưa muốn để Ernest đi dễ dàng như vậy.
Video đang HOT
Ernest vẫn phải ở trong tù vì tội ăn cắp từ trước. Đây là tội danh đã được tuyên từ trước và không bị ảnh hưởng bởi “quyết định Miranda”. Tuy nhiên, ngay sau khi thông tin về luật mới tới bang Arizona, các công tố viên ở Maricopa tuyên bố sẽ xét xử lại vụ Ernest Miranda hiếp dâm mà không chấp nhận sử dụng tờ thú tội của anh ta như một bằng chứng có hiệu lực.
Nhưng tự bản thân Ernest Miranda lại là vấn đề trục trặc nhất vào lúc này. Không hiểu vì lý do gì, anh ta vẫn thú nhận việc mình đã hãm hiếp Patrice McGees với vợ là Twila Hoffman.
Cô vợ, nghe xong nổi điên và muốn có quyền chăm sóc và nuôi con mình sau khi ly dị. Cô nói với công tố viên về lời thú tội của chồng trong trại giam với mình. Các công tố viên đã sử dụng điều này trong phiên tòa tái thẩm. Từ đó lại nảy sinh vấn đề có nên sử dụng lời khai của người vợ để làm bằng chứng trong phiên tòa xét xử lại Ernest. Mọi việc lại kiện cáo lên tòa án tối cao Hoa Kỳ. Nhưng lần này tòa không chấp nhận nghe những lời bào chữa cho Ernest Miranda. Anh ta bị kết án lần thứ 2 về tội hiếp dâm Patrice McGee. Một thẩm phán tối cao ở Maricopa tái kết án Ernest Miranda từ 20 – 30 năm tù vì tội bắt cóc và hiếp dâm.
“Chúng tôi dựa trên thực tế là mọi vấn đề đều có ngoại lệ và coi trường hợp của Miranda như là kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, trong thời gian bắt giữ và xét xử Ernest, luật chưa quy định đầy đủ về quyền cơ bản của nghi phạm như đã được Hiến pháp đề cập tới” – chánh thẩm phán Rehnquist nói. “Chúng tôi đồng tình với kết luận của phiên phúc thẩm, mặc dù thừa nhận có những quan niệm khác nhau về việc này”.
Vậy là dù thẩm phán Rehnquist chấp nhận luật mới quy định phải thông báo quyền cho nghi can trong quá trình bị bắt và thẩm vấn, ông vẫn giữ nguyên mức án dành cho Ernest vì ông tin rằng cơ quan điều tra đã làm đúng. Các tổ chức dân quyền vẫn đấu tranh rất nhiều. Kết quả tuyệt vời cho những nỗ lực đó, thông qua vụ án của Ernest Miranda, là luật pháp quy định những người thi hành công vụ phải công bố quyền của nghi can khi bị bắt và thẩm vấn, xét xử.
Cuộc đời của Ernest Miranda sau khi ra tù
Ernest Miranda thi hành được 1/3 án bị tòa tuyên phạt thì được giảm án rất nhiều trước khi tòa án Aricona đồng ý thả tự do anh trong tháng 12/1972. Sau niềm vui đó là cả một cuộc mưu sinh vất vả.
Ernest Miranda kể với bạn rằng anh muốn làm việc gì đó ở bên ngoài. Anh này muốn đi học lại để “được hiểu biết trong xã hội”. Dù không biết là khó khăn nhưng đó chỉ là suy nghĩ ban đầu.
Nhưng “giang sơn dễ chuyển, bản tính khó dời”, Ernest Miranda sớm rơi vào lối sống trước đây. Ra tù sau hơn 1 năm, anh ta lại có trục trặc với cảnh sát vì lái xe trong lúc say xỉn. Sau nữa, Ernest bị phạt 1 năm tù vì sử dụng súng trái phép. Thế là anh ta lại phải “thăm lại” nhà tù bang Arizona một thời gian.
Sau khi ra tù, Ernest dành toàn bộ thời gian đi làm hầu bàn ở các quán bar. Một đêm tháng 1/1976, Ernest Miranda dành buổi tối chơi bài và đánh bạc với một nhóm khác. Một cuộc hỗn chiến vì mâu thuẫn về tiền bạc xảy ra trong nhóm. Ernest bị một gã nhập trái phép người Mexico đâm chết. Lúc đó anh mới 36 tuổi.
Cảnh sát đã bắt được một trong những kẻ gây ra vụ án mạng. Và khi khống chế tên này, họ đã thực hiện 1 quy tắc theo luật mới quy định với những lời thông báo: “Anh có quyền giữ im lặng, bất kỳ điều gì anh nói có thể chống lại anh tại tòa”.
Theo 24h
Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 6)
Các nghi can được đánh số để nạn nhân nhận diện.
Vụ án đã thu hút được sự quan tâm của Hiệp hội Dân quyền để giải quyết vấn đề pháp lý.
Ernest Miranda phải ngồi sau song sắt ít nhất 2 năm tại nhà tù an ninh bậc nhất gần Florence, Arizone mà không biết rằng vụ án của mình sau này sẽ có vai trò lịch sử trong việc thay đổi luật. Tất cả những gì anh biết là muốn ra khỏi nhà tù Florence mà nguyên nhân là hệ thống pháp lý Arizone đã sai. Như một gã ăn mày, Ernest gửi đơn xin xem xét lại vụ án của mình tới tòa án tối cao Hoa Kỳ vào tháng 6/1965.
Ở bên ngoài những bức tường của nhà tù bang Arizona, vụ án của Ernest Miranda đã thu hút được sự quan tâm của một tổ chức khá quan trọng: Hiệp hội Dân quyền Hoa Kỳ (The American Civil Liberties Union, viết tắt: ACLU). Hội này đang tìm kiếm quyền để đưa lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ phân loại trường hợp Escobedo. Chính Hiệp hội Dân quyền cũng đóng vai trò tích cực trong vụ Escobedo và trong nhiều phiên tòa phúc thẩm khác có dựa trên vụ án này. Nhưng cũng vì thế các phiên tòa liên bang gặp nhiều mâu thuẫn liên quan tới việc nên cho nghi can gặp luật sư vào lúc nào.
Viên giám đốc của hiệp hội liên hệ gặp luật sư Alvin Moore nếu ông này sẵn sàng đưa vụ án lên tới tòa án tối cao, dĩ nhiên là với sự trợ giúp của ACLU. Luật sư Moore, lúc này đang đau buồn vì thất bại trong việc bào chữa cho bị cáo mà ông biết là vô tội, nhưng ông lại không thể nhận lời vì sức khỏe giảm sút.
John J. Flynn, một luật sư có uy tín trong các vụ bào chữa án hình sự, thành viên của một trong những hãng luật lớn nhất Phoenix đã nhận lời thay Moore đảm nhận vụ này. Dù đã có sự trợ giúp của ACLU nhưng vì đây là vụ án quan trọng, lại lên tới tòa án tối cao nên John mời cả John P. Frank trợ giúp cho mình.
Cả hai cũng đều biết sự thật về bản lý lịch không mấy tốt đẹp của thân chủ. Ernest Miranda đã từng là một công dân có nhiều tiền án tiền sự với tội cưỡng hiếp và bắt cóc. Frank biết quan trọng việc Ernest có tội hay không nhưng thay vào đó là tập trung vào những vấn đề liên quan tới Hiến pháp mà tòa án tối cao sẽ phải giải quyết.
"Cho tới lúc nhận lời, tôi cũng chưa biết thực sự Miranda có tội cưỡng hiếp hay không. Nhưng cho dù anh ta làm gì đó, tôi không biết hành động đó có bị làm trầm trọng hơn không bởi quy trình điều tra và thẩm vấn." Frank sau này cho biết.
Khi Flynn và Frank ngồi cùng nhau để bàn bạc, họ không đồng ý với khía cạnh của Tuyên Ngôn Nhân Quyền mà bình thường các luật sư hay dựa vào đó để lập luận. Vụ án của Enrnest hợp với bản Tu chính án thứ 5 (phần thêm vào một đạo luật/Hiến pháp) để tránh bị ép phải nhận tội, hoặc hợp với bản Tu chính án thứ 6 nói về quyền có luật sư hỗ trợ. Frank tranh luận về bản Tu chính án thứ 6 còn Flynn sẽ là công tố viên điều tra những thủ thuật mà cảnh sát sử dụng để có được bản nhận tội của Ernest vì ông tin rằng cảnh sát đã vi phạm Tu chính án thứ 5.
Tòa án tối cao Arizone đã coi vụ Escobedo như là lời chỉ dẫn cho tất cả các mục đích thực tế rằng việc bảo vệ Tu chính án thứ 6 không phù hợp cho những người không nhận thức được quyền của họ hoặc quá đe dọa tới mức họ không cần yêu cầu giúp đỡ của luật sư.
Câu hỏi mà tòa án cần quyết định là liệu một nghi can có cần biết quyền của anh ta được phép yêu cầu luật sư hay không? Hoặc liệu cảnh sát có phải thông báo quyền căn bản này hay không? Đó là vấn đề 2 luật sư quyết định sẽ phải làm rõ.
Qua mùa hè năm 1965, các tòa án tối cao liên tục nhận được những kháng cáo từ phía những người đã ngã xuống đầm lầy Escobedo. Rõ ràng điều cần phải làm là nhanh chóng giải quyết những vấn đề pháp lý đang phát sinh ngày càng lớn.
Tháng 11/1965, 1 cuộc thảo luận diễn ra căng thẳng trong cả ngày trời giữ 9 viên thẩm phán cấp cao. Quyết định phải được đưa ra để trả lời cho những vấn đề pháp lý mà vụ Escobedo đã đặt ra. 9 vị này đã chọn vụ án của Ernest Miranda để xem xét. 4 vụ án khác xảy ra tương tự với vụ án đó cũng được gộp lại để tranh luận trong ngày hôm đó.
Theo 24h
Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 5) Theo lời khai của Patrice, cô chống lại kẻ hãm hiếp mình nhưng trên người nạn nhân không hề có dấu hiệu xây xước (ảnh minh họa) Những tranh cãi quyết liệt về pháp lý không có hồi kết giữa các phiên tòa. Những bất đồng và tranh cãi Luật sư Moore phản đối việc sử dụng bản tự thú của Ernest làm...