Văn hóa ẩm thực của người Mường
Ẩm thực của người Mường rất đặc sắc và độc đáo, ẩn chứa nhiều giá trị tinh thần, vừa đơn giản, mộc mạc lại vừa hài hòa, bổ dưỡng, góp phần đem lại sự tự hào cho con người và vùng đất nơi đây.
Hòa Bình là cái nôi phát sinh nền văn hóa Hòa Bình, đây cũng là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Mường với các vùng Mường “nhất Bi, nhì Vang, tam Thành, tứ Động”. Văn hóa Mường là nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, gắn liền với thiên nhiên và con người nơi đây.
Đối với cư dân Mường ở Hòa Bình, nền kinh tế của họ chủ yếu là nông nghiệp, là canh tác lúa nước. Do vậy, sau mỗi mùa thu hoạch, người Mường thường dùng cơm nếp đồ lên thành xôi để tạ ơn thần linh. Không những thế, cơm nếp còn là thức ăn được sử dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân bởi vì khi đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, nguồn thực phẩm chưa nhiều, cơm nếp đồ lên rắc một ít muối vừng vào là có thể ăn ngon lành và có thể mang theo để ăn trưa khi đồng bào đi làm cả ngày ở trên nương.
Đối với người Mường, ẩm thực không đơn thuần là đồ ăn thức uống mà chứa đựng trong đó là cả một nền văn hóa lâu đời. Trong khi chế biến cũng như trình bày các món ăn, màu sắc của nguyên liệu rất được chú trọng.
Ví dụ nước chấm lòng cá cho món rau đồ có sự kết hợp của nhiều loại nguyên liệu nhiều màu sắc như: màu vàng của gừng, màu đỏ của ớt, cà chua, màu trắng của mẻ, màu xanh của rau ngổ, rau răm. Kết hợp như vậy không những tạo ra tính hấp dẫn cho món ăn mà sự kết hợp đó dựa theo nguyên tắc hài hòa âm dương, lòng cá vốn mang tính hàn (lạnh) dễ đau bụng nên lấy tính dương ( nóng) của ớt, gừng để át tính hàn, bên cạnh đó rau ngổ và rau răm có vị thơm nồng có thể khử mùi tanh nhưng lại dễ bị mất màu ở nhiệt độ quá cao cho nên khi chưng chín lòng cá cùng với gia vị, gừng, ớt nhấc ra khỏi bếp múc ra bát rồi mới cho rau vào vừa giữ được màu lại không bị nồng, nhìn rất hấp dẫn.
Video đang HOT
Cách trình bày món ăn truyền thống của người Mường cũng rất độc đáo. Trong mâm cỗ lá chuối các loại thức ăn được bày theo hình tròn. Trong cùng sẽ là lòng, tim, gan lợn đã luộc chín tiếp theo là thịt nướng và chả lá bưởi và vòng ngoài cùng sẽ là thịt luộc. Thịt nướng thường được tẩm riềng, sả, mẻ, bột nghệ nên có vị ngậy và thơm, khi thịt luộc và lòng luộc hút mỡ đó thì hương vị của gia vị chín hòa quện vào làm cho món ăn ngon hơn, hấp dẫn hơn. Do khẩu vị của các món ăn khác nhau cho nên ăn món luộc trước món nướng bao giờ cũng cảm thấy ngon miệng hơn vì món luộc bao giờ cũng vừa miệng chứ không đậm đà như món nướng.
Nói như vậy không có nghĩa là người Mường ăn hết món luộc ở vòng ngoài rồi mới ăn đến món nướng ở vòng trong mà vì trong văn hóa ăn uống của người Mường, phần lòng và gan bao giờ cũng là phần ngon nhất cho nên người ta thường gắp cho nhau những miếng gan để tỏ lòng thơm thảo.
Xung quanh vòng tròn lá chuối thường có hai bát canh xương lợn nấu với bí xanh hoặc thân cây chuối và hai gói xôi đặt đối xứng nhau tạo thành bốn góc của hình vuông. Rõ ràng là một sự bố trí đơn giản, hợp khẩu vị mà vẫn thể hiện được tín ngưỡng dân gian “trời tròn đất vuông”. Tuy nhiên mỗi một vùng lại có cách bài trí riêng không nhất thiết phải sắp xếp theo một khuôn mẫu chung.
Trong quan niệm ăn uống của người Mường cũng rất đặc biệt, họ kiêng xới cơm một lần vì theo họ cơm xới một lần để dành cho ma. Nhưng ngày thường mà họ thịt gà thì họ dặn con cái không được nói to không phải sợ hàng xóm nghe thấy mà họ sợ ma quỷ nghe thấy, chúng sẽ làm cho cả nhà đau bụng. Đặc biệt là khi tra hạt dổi vào trong các món ăn, bao giờ cũng tra số lẻ (nhiều ít tùy theo số lượng thức ăn) chứ không phải là số chẵn vì tra số chẵn thì sẽ mất vị thơm và cay của hạt dổi.
Nếu người Kinh nấu món cá với măng chua thường rán vàng cá lên cho đỡ tanh và thơm rồi mới cho măng vào nấu kết hợp với rau mùi tàu thì người Mường lại chế biến theo cách khác mà vẫn thơm ngon. Họ không rán cá mà đun khô hết nước lã trên mình con cá rồi đổ vài giọt rượu vào nồi và châm lửa đốt để khử tanh, sau đó cho măng chua và gia vị vào đun chín, nhắc ra khỏi bếp thì cho thêm rau mùi tàu và ba hoặc năm hạt dổi, cá vừa không tanh mà thịt lại ngọt.
Hiện nay, ẩm thực của người Mường đã mất dần đi tính nghi thức và tính biểu tượng truyền thống, mang những nét mới của cuộc sống, lối sống và phong cách sống hiện đại nhưng không vì thế mà mất đi tính văn hóa. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trên phải luôn được đề cao và cần thiết./.
Theo Dulichvn.org.vn
Độc đáo đuông dừa phương Nam
Tuyên truyền rằng, thời nhà Nguyễn, hằng năm người dân phương Nam thường bắt đuông về chế biến dâng lên vua Gia Long và Minh Mạng .
Vì nghiền món đuông nên nhà vua cho thợ chạm khắc hình con đuông trên cửu đỉnh đặt ở Thế miếu ngoài cung đình Huế và xem đuông như là một sản vật lạ và quí của nước Nam. Vì vậy, có thể nói đuông là món ăn đặc trưng trong văn hóa ẩm thực vùng Nam bộ và Nam Trung bộ.
Đuông là ấu trùng dạng sâu của bọ kiến dương, thường sinh sống ở phần mềm bên trong ngọn cây loại cổ hủ. Nếu đuông chà là, đuông cau, đuông mía,... mỗi cây chỉ có vài ba con thì đuông dừa làm ổ hàng trăm con. Cho nên, cây dừa nào có đuông kí sinh nhiều cũng sẽ đến lúc đọt thối, ngã ngang. Người dân phải hạ đốn cây, bổ thân dừa ra, mỗi con nằm một lỗ và một cây có hàng trăm con đuông to, ú mập, béo tròn bằng ngón tay.
Từ xưa, người dân xứ dừa đã biết dùng đuông để làm thành nhiều món ăn hấp dẫn và bổ dưỡng. Theo kinh nghiệm dân gian, đuông trị các chứng đau đầu, suy nhược, có công dụng thanh nhiệt tức phong, trấn an thần kinh,....
Thường người ta chọn những con đuông to tròn, mập mạp rồi dùng trúc, chẻ vừa miếng làm nẹp, kẹp nguyên con vào giữa, để lên lửa than nướng liu riu, trở qua xoay lại. Món này không tẩm ướp nên nó còn nguyên hương vị của đuông, một phần nhờ nướng vàng lớp da bên ngoài mà khi ăn cũng bớt cảm giác ngán.
Dân sành nhậu không thể bỏ qua món đuông tẩm nước mắm. Những con đuông non, ứ sữa được cho vào chén nước mắm với vài lát ớt cay nồng. Khi đuông "tắm" trong nước mắm sẽ giúp cho đuông có vị mặn mà đồng thời vừa để thải chất dơ ra ngoài. Thực khách chỉ cần gắp những con đuông còn sống cho vào miệng, nhai cái bụp, vỏ đuông vỡ ra, hương vị ngọt ngọt, bùi bùi lập tức lan tỏa trên đầu lưỡi. Món này thu hút nhiều người vì mang lại cảm giác "nguyên chất" khi thưởng thức.
Ngoài ra, nhờ chứa nhiều chất dinh dưỡng, đuông còn được dùng bỏ vào nồi cháo hành nóng giúp hỗ trợ nhiều cho trẻ con bị suy dinh dưỡng hoặc người lớn mắc bệnh lâu ngày bị gầy yếu.
Nhưng có lẽ phổ biến và hấp dẫn nhất là đuông chiên giòn. Bắt chảo, phi dầu cùng hành tỏi thơm phưng phức rồi đổ đuông vào. Vài phút sau, nêm một ít nước mắm, tiêu bột, chảo đuông chiên bây giờ bốc khói làm nức cả mũi, nhanh tay đảo đều, nhắc xuống. Nếu muốn cầu kỳ hơn chút xíu, thì pha một tô bột (loại dùng để chiên tôm), nhúng từng con rồi thả vào chảo dầu đang sôi, chờ bột vàng rụm là vớt ra .
Đuông nhai kỹ có vị ngọt bùi, béo đậm đà nhờ chúng có nhiều chất đạm, ăn mãi không chán. Ăn đuông mà có các loại rau húng, quế, ngò... và đi kèm rượu chát thì tuyệt. Từ lâu đuông đã là một trong những món ăn quý của dân sành ẩm thực vùng đất Nam bộ và Nam Trung bộ.
Theo Lao Động
Lên Tây Bắc thưởng thức món rêu nướng độc đáo và đặc sắc của đồng bào người Thái Không chỉ thơm ngon, bổ dưỡng, món ăn có tên lạ tai: Rêu đá còn khiến người thưởng thức mường tượng ra hương vị đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Theo nhiều thực khách, đây là món ăn độc đáo, có 1-0-2. Đây là những món ăn thơm ngon, độc đáo của người Thái. Từ nguyên liệu chính là rêu đá người...