Vài thập kỷ nữa Việt Nam mới có trường ĐH đẳng cấp quốc tế
“Theo tôi, thời gian có lẽ cần phải vài thập kỷ nữa, chứ không phải 10-15 năm để Việt Nam có trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Trong thời điểm hiện tại, đó là một điều hoàn toàn viển vông”, Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng (ĐH Toulouse, Pháp) nhận định.
GS đánh giá thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay như thế nào? Theo GS, chúng ta đang đứng ở vị trí nào so với thế giới?
Về nền giáo dục nói chung, theo tôi Việt Nam mới đạt mức trung bình yếu, còn riêng giáo dục Đại học thì là yếu. Hiện Việt Nam đang nằm trong số 60 nước có nền giáo dục Đại học yếu nhất thế giới. Điều đó phản ánh thực trạng yếu kém của giáo dục đại học Việt Nam so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Không nói đâu xa, chỉ so sánh ngay với Thái Lan và Malaysia trong khu vực Đông Nam Á, hai nước này hiện cũng phát triển nhanh hơn Việt Nam về giáo dục đại học. Thậm chí là ở lĩnh vực toán học, ngành khoa học mà ViệtNam vốn thường tự hào. Theo số liệu mới đây mà tôi được biết, Thái Lan vàMalaysia đã vượt qua Việt Nam về số lượng công trình toán học được xuất bản.
Theo GS, tại sao cho tới thời điểm này, Việt Nam chưa có một trường ĐH nào lọt Top 400 hay 500 của các BXH danh tiếng như Times Higher Education World University Rankings hay Academic ranking of world universites do ĐH Giao thông Thượng Hải (Shanghai Jiao Tong University)?
Theo tôi, đây là điều phản ánh đúng thực tế, dù là một thực tế đáng buồn. Nếu Việt Nam có trường đại học lọt vào những Top như bạn liệt kê ở trên, đó mới là điều đáng ngạc nhiên. Không thể phủ nhận Việt Nam có nhiều nhà giáo dục, nhà khoa học tài năng và tâm huyết với sự nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, do còn quá nhiều rào cản về cơ chế, thể chế, đầu tư cho nghiên cứu khoa học… nên những nhà khoa học này chưa thể toàn tâm, toàn ý và có đủ điều kiện để đóng góp cho nền giáo dục một cách tốt nhất.
Hiện tại theo tôi, chúng ta không nên đặt ra vấn đề là làm sao có được trường đại học đạt một thứ hạng nào đó trên các bảng xếp hạng của thế giới mà trước hết, cần phải xây dựng một nền tảng cơ sở tốt để các trường đại học có cơ hội phát triển. Như người ta thường nói bạn không thể xây một tòa lâu đài trên cát.
Khi chúng ta hướng tới chuẩn quốc tế, tức là chúng ta nhìn nhận được trường đại học đẳng cấp quốc tế nó như thế nào thì mới có thể dựa vào đó, biết chúng ta cần phải thay đổi những gì. Theo tôi, thời gian có lẽ cần phải vài thập kỷ nữa, chứ không phải 10-15 năm để Việt Nam có trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Trong thời điểm hiện tại, đó là một điều hoàn toàn viển vông.
Giấc mơ lọt vào Top các bảng xếp hạng đại học uy tín của thế giới vẫn còn xa vời với các trường ĐH Việt Nam
Một trường đại học phải bao gồm những điều kiện gì và dựa trên tiêu chí nào thì được coi là đạt đẳng cấp quốc tế, thưa GS?
Để đánh giá một trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế, người ta thường dựa vào hai tiêu chí chính là thành tích về giảng dạy và nghiên cứu. Thành tích về giảng dạy ở đây bao gồm uy tín của bằng cấp, tỷ lệ sinh viên ra trường tìm được việc làm, cựu sinh viên có nắm những vai trò quan trọng trong xã hội, hay các tổ chức quốc tế… Còn thành tích về nghiên cứu là số công trình được xuất bản, trích dẫn, giải thưởng…
Tuy nhiên, tôi cho rằng để đánh giá một trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế thì việc xét các điều kiện mà trường đó có quan trọng hơn là đánh giá về thành tích. Nói một cách nôm na, “không có bột thì sao gột nên hồ”, nếu điều kiện của ta tồi thì khó mà đạt được thành tích cao.
Video đang HOT
Tôi xin đưa ra một số điều kiện để một trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế:
- Điều kiện về Đầu tư tài chính: Trên thế giới, có những trường đầu tư hàng tỷ USD một năm cho giảng dạy, nghiên cứu… Trong khi đó, một trường đại học Việt Nam tính theo tổng đầu tư trong 10 năm chỉ mới đạt 200 triệu USD, một mức còn quá khiêm tốn. Bởi vậy, chúng ta chưa nên đặt ngang bằng với quốc tế mà đặt mục đích đảm bảo chất lượng cho phù hợp với điều kiện kinh tế của VN.
- Điều kiện về con người: Một trường đại học dù trang bị tốt đến mấy, đầu tư nhiều đến mấy mà không có nhân lực giỏi thì cũng khó mà phát triển và đạt tầm quốc tế. Đội ngũ giảng viên của các trường đại học Việt Nam hiện tại còn quá mỏng. Tôi lấy ví dụ về ngành Toán, được coi là ngành khoa học phát triển tốt nhất ở VN hiện tại. Nếu so sánh cả nền toán học của Việt Nam vàViện Toán Toulouse nơi tôi đang làm việc, về số lượng thì người làm toán ở Việt Nam đông hơn nhưng số lượng công trình thì còn thấp hơn, đó là chưa nói tới chất lượng.
Nếu chúng ta tập hợp tất cả những nhà toán học giỏi ở Việt Nam thì còn có thể đủ điều kiện để xây dựng một trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế nhưng nếu làm như vậy thì những trường còn lại sẽ phát triển ra sao. Bởi vậy, theo tôi đó là một giải pháp không khả thi.
- Cơ chế đài thọ cho những nhà khoa học: Những trường đại học nổi tiếng như Harvard, Yale, Oxford đều có cơ chế đài thọ cực tốt cho đội ngũ giáo sư, giảng viên của họ. Các trường đại học Mỹ nổi tiếng không chỉ bởi họ tuyển mộ được những nhà khoa học giỏi ở mọi nơi trên thế giới mà còn luôn có cơ chế đài thọ xứng đáng. Trong tình hình hiện tại của Việt Nam thì đây là điều cực kỳ khó khăn và là một trong những rào cản khiến các trường đại học chúng ta khó có được những giáo sư hàng đầu thế giới tham gia giảng dạy.
Những khó khăn đối với giáo dục đại học Việt Nam để xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế là gì? GS đánh giá đâu là khó khăn lớn nhất và cần phải làm gì để tháo gỡ?
Theo tôi, giáo dục đại học Việt Nam đang đối diện rất nhiều khó khăn để có thể đạt được mục tiêu xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế. Đó là những rào cản về cơ chế, thể chế, nguồn lực giảng viên, quyền tự chủ cho các trường đại học, cơ chế tuyển chọn cán bộ… Cơ chế quản lý trói buộc khiến nhiều nhà khoa học có tâm huyết và tài năng nhưng lại không có đủ thời gian và điều kiện dành cho nghiên cứu.
Một điều rất quan trọng để các trường đại học phát triển là phải được tự chủ về tài chính. Khi về công tác ở Việt Nam, tôi được biết rằng ở một số trường đại học được tự chủ về tài chính, họ trả lương giáo viên thậm chí còn cao hơn nhiều so với các trường khác, dù họ không được nhà nước đầu tư nhiều bằng.
Điều đó cho thấy không phải các trường không có tiền trả cho giảng viên mà là cơ chế khiến các trường không thể trả lương xứng đáng cho giảng viên hoặc có tiền nhưng tiền đó dành cho các công việc, mục đích khác, không phục vụ công việc nghiên cứu. Hướng cho các trường đại học được phép tư chủ về tài chính, và theo tôi, minh bạch hóa là yếu tố quan trọng cần thiết để trường đại học phát triển.
Để tiến bước và dần bắt kịp với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực, châu lục cũng như thế giới, chúng ta có nên “học tập” theo một mô hình nào không?
Mỗi quốc gia có một môi trường giáo dục riêng. Nếu chúng ta copy nguyên xi một mô hình nào đó thì sẽ khó mà phù hợp bởi nền tảng, văn hóa, môi trường, cơ chế… ở Việt Nam hoàn toàn khác. Cái mà chúng ta có thể học tập được là phân tích những điểm tốt của các mô hình đó và áp dụng cho phù hợp với thực tế, điều kiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, để làm được điều đó, cần phải có những người có trình độ và tâm huyết để vạch ra và xây dựng thành chiến lược cụ thể.
Xin cảm ơn GS đã trả lời phỏng vấn của Dân trí!
Mạnh Hải
Theo dân trí
Quốc tế bàn xếp hạng đại học Việt
Hội nghị hiệu trưởng các trường ĐH thành viên (CONFRAISE) của Tổ chức ĐH Pháp Ngữ (AUF) khu vực Châu Á Thái Bình Dương diễn ra chiều 2/10 tại Hà Nội. Số đông đại biểu nhận định, Việt Nam chưa có trường ĐH nào đạt đẳng cấp quốc tế.
Để đạt được mục tiêu này là vấn đề lớn và chắc chắn sẽ tốn rất nhiều tiền.
Mỗi trường phải tự xác định thế mạnh
Mở màn cho cuộc trao đổi, ông Michel Troquet - Chủ tịch Hội đồng khoa học AUF cho rằng: "Xếp hạng các trường ĐH phải dựa vào những góc độ cụ thể để đưa ra những ý tưởng đổi mới. Một câu hỏi đặt ra ở đây: Xếp hạng ĐH có phải là cạnh tranh hay hợp tác lẫn nhau?"
Theo ông Michel Troquet, Bộ Đại học của Pháp đã có nhiều văn bản đề cập đến bảng xếp hạng của Trường ĐH Giao thông Thượng Hải (một trong số ít bảng xếp hạng được giới chuyên môn đánh giá có uy tín) - từ đó đưa ra đường hướng phát triển cho các trường. Chính phủ đầu tư tập trung vào 10 trường ĐH hàng đầu để có thể cạnh tranh với thế giới.
Khó khăn lớn nhất đối với các nước là làm sao đưa những trường ĐH của mình lọt vào top 500 trên tổng số 17.000 trường mà ĐH Giao thông Thượng Hải tổ chức xếp hạng.
Muốn như vậy phải làm sao xếp hạng các trường ĐH cùng một mô hình, Pháp vẫn thường làm điều này với các mô hình như kỹ sư hay thương mại. Thêm nữa các tiêu chí định ra phải rõ ràng, phải định ra được các tiêu chí chính...
Một điểm thú vị được vị Chủ tịch chia sẻ là ở Pháp sinh viên cũng được xếp hạng hàng năm dựa trên các tiêu chí chất lượng đời sống cũng như đào tạo kéo theo đó là vai trò của trường ĐH.
Ông David Bel, đại diện Trường ĐH Sư phạm Nam Trung - Trung Quốc: "Những chương trình đã được TQ đưa ra với kỳ vọng có thể nâng tầm cỡ và khả năng cạnh tranh của các trường ĐH với thế giới nhưng kết quả mang lại chưa cao".
Tuy nhiên, một bảng xếp hạng chung và duy nhất với các tiêu chí để xếp hạng trường ĐH theo ông Michel Troquet không phải lý tưởng vì mô hình các trường ĐH hết sức phong phú. "Nhưng trước hết mỗi trường phải tự đánh giá được thế mạnh và điểm yếu của mình để cải tiến chu trình giảng dạy và đào tạo".
Ý kiến khác cho rằng: "Có những tiêu chí có thể đong đếm được nhưng còn những tiêu chí liên quan đến đời sống, khoa học chính xác khác khoa học nhân văn. Đạo đức, trách nhiệm của người được đào tạo có được xếp hạng? Hay giờ chỉ có tiêu chí đánh giá các công trình xuất bản, cuốn sách nghiên cứu bằng tiếng Anh. Nhưng còn tiếng Trung, Việt, Nga,...cũng rất phong phú".
Nên "chấm điểm" mức độ tín nhiệm?
Hiệu trưởng Trường ĐH Hoa Sen Bùi Trân Phượng đề cập về một "cuộc cải cách lâu dài" và nên thúc đẩy các trường ĐH đang có để trở thành ĐH đẳng cấp hay xây trường mới với các tiêu chí để đạt đẳng cấp?.
Chủ tịch CONFRAISE cho rằng, Việt Nam nên tập trung cải thiện chất lượng trường ĐH đang có.
"Liệu Việt Nam có muốn tạo áp lực cho ĐH để họ vượt lên? Như vậy sẽ có một số trường tụt hạng, tạo sự chênh lệch đẳng cấp. Liệu người tuyển dụng sẽ nghĩ gì với sinh viên học các trường ĐH địa phương như thế?" - bà Sackona đặt câu hỏi.
Theo bà Phượng: "Đánh giá mức độ tín nhiệm hay hơn là có những tiêu chí xác định hoặc có thể đo đếm". Từ kinh nghiệm quản lí, bà cho rằng - trường quan tâm hơn đến cơ hội việc làm của sinh viên khi ra trường hay hoàn thành nhiệm vụ mà xã hội đang mong đợi được bao nhiêu. Từ đó, trường tự đặt ra nhiệm vụ cho từng giai đoạn.
Bàn về xếp hạng ĐH, Hiệu trưởng Trường ĐH Hoa Sen Bùi Trân Phượng nêu quan điểm: "Đánh giá mức độ tín nhiệm hay hơn là có những tiêu chí xác định hoặc có thể đo đếm".
Với kinh nghiệm làm Hiệu trưởng trường ĐH ở Canada, chủ tịch AUF chia sẻ: "Giáo dục ở Canada từ tiểu học đến ĐH do các tỉnh làm, ít chịu sự tác động của Chính phủ hay Bộ GD-ĐT như nhiều nước vẫn làm. Việc đánh giá nhu cầu nhân lực của từng địa phương được làm thường xuyên để định hướng đào tạo cho các trường. Về tài chính: trường có cơ chế tự chủ lớn, 30-35% ngân sách do Nhà nước cấp, còn lại trường phải tự tìm kiếm.
Vấn đề tự đánh giá, kiểm tra chất lượng được làm chặt chẽ và cơ chế quản lí minh bạch. Chính quyền ít khi phải can thiệp. Chúng tôi có khái niệm tự đánh giá mình và không nhất thiết phải đánh giá theo tiêu chí của chính phủ mà dựa vào tiêu chí của các doanh nghiệp".
Một thực tế được các đại biểu nhận định rằng Việt Nam chưa có trường ĐH nào đạt đẳng cấp quốc tế. Để đạt được mục tiêu này là vấn đề lớn và chắc chắn sẽ tốn rất nhiều tiền.
Theo Văn Chung
VietNamNet
ĐH Troy, Hoa Kỳ - Cho một tương lai vững chắc. Song, hiện nay, tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều môi trường đào tạo liên kết với các chương trình đào tạo tiên tiến tại các nước phát triển mang đẳng cấp Quốc tế, đặc biệt là về giáo dục cũng là nơi các bạn trẻ có thể gởi gắm tương lai. Môi trường năng động cho sự khởi đầu vững chắc Troy...