Tự chủ tài chính là giải pháp “cởi trói” cho đại học
Nhận định giáo dục đại học Việt Nam còn nhiều bất cập, “ rào cản” về cơ chế, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, chế độ giảng viên… GS Nguyễn Tiến Dũng (ĐH Toulouse, Pháp) cho rằng trao quyền tự chủ tài chính là giải pháp hữu hiệu “cởi trói” cho các trường ĐH.
Theo GS Nguyễn Tiến Dũng, muốn có một nền giáo dục đại học phát triển thì bắt buộc phải có sự đầu tư cho khoa học tương xứng. Dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng hiện tại, Việt Nam mới chỉ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển ở mức rất thấp (0,2%) và để thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp, GS Dũng cho rằng Việt Nam cần phải tăng tỷ lệ đầu tư cho R&D, hay cũng chính là tăng đầu tư cho giáo dục đại học, lên gấp nhiều lần.
GS. Nguyễn Tiến Dũng
Bên cạnh việc tăng đầu tư cho khoa học, GS Dũng cũng nhấn mạnh một điều tối quan trọng để giáo dục đại học Việt Nam phát triển là cải thiện chế độ đãi ngộ đối với giảng viên, thành phần nòng cốt của đại học. Tuy nhiên, do những bất cập về cơ chế nên hiện phần lớn các trường đại học ở ViệtNam chưa thể có chế độ tương xứng với giảng viên, nghiên cứu viên. Bởi vậy, việc trao quyền tự chủ tài chính cũng như các quyền tự chủ khác sẽ giúp “cởi trói” về mặt cơ chế cho các trường đại học, là cơ sở để đại học Việt Nam phát triển.
Sức bật của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư cho khoa học
Các nước có sức bật mạnh nhất về kinh tế chính là những nước có tỷ lệ đầu tư cao nhất cho nghiên cứu và phát triển. Ví dụ điển hình là Hàn Quốc. Chỉ trong mấy chục năm, Hàn Quốc từ một nước nghèo biến chuyển hoàn toàn thành một nước công nghiệp hiện đại, cạnh tranh thắng cả Mỹ, Nhật về nhiều mặt công nghệ.
Tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Hàn Quốc là hơn 3% GDP, thuộc loại cao nhất thế giới. Những cường quốc mới như Trung Quốc cũng đang tăng rất nhanh tỷ lệ đầu tư cho R&D. Trong khi đó, Việt Nam mới chỉ đầu tư được có 0.2% GDP cho R&D, là con số quá thấp so với tham vọng trở thành nước công nghiệp. Nếu như cứ mỗi năm Việt Nam tăng tỷ lệ đầu tư cho R&D lên thêm 30% so với năm trước, thì phải sau 10 năm nữa tỷ lệ đầu tư cho R&D mới đạt được đến mức 2%GDP.
Các đại học vừa là các trung tâm đào tạo nhưng cũng vừa có chức năng nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Bởi vậy, tăng đầu tư cho đại học cũng chính là tăng đầu tư cho R&D.
Chất lượng cao đi đôi với giá thành cao
“Chất lượng quốc tế nhưng giá thành bằng 1/10 quốc tế” là chuyện viển vông. Để đạt đẳng cấp quốc tế, thì đại học cũng cần được đầu tư ngang tầm quốc tế, và các Giáo sư phải được trả lương tương đối cạnh tranh so với quốc tế, chứ không phải chỉ bằng 1/5 hay 1/10 quốc tế.
Video đang HOT
Kể cả với chất lượng còn khiêm tốn hiện tại ở Việt Nam, việc tính giá thành ở đại học vẫn quá thấp so với giá trị thực sự mà đại học đang mang lại cho xã hội. Việc tính quá thấp đó (ví dụ như tính giá thành của các giờ giảng bài quá thấp) làm giảm giá trị của đại học trong nền kinh tế, và làm cho đại học không nhận được mức đầu tư cần nhận được để “nuôi nấng” và phát triển.
Giáo dục đại học Việt Nam đang “vướng” nhiều rào cản về cơ chế để phát triển
Học phí cần được tính hợp lý
Vẫn theo nguyên tắc “tiền nào của đấy”, nếu tính mức chi phí hàng năm trên đầu sinh viên quá thấp, thì đại học sẽ không có kinh phí để trang bị cơ sở vật chất tốt và trả lương xứng đáng cho giảng viên. Bởi vậy cần tính mức chi phí cho hợp lý. Đối với sinh viên hoàn toàn tự túc, thì phải trả học phí tương xứng với mức chi phí đó.
Còn tất nhiên, đại học có thể có các loại học bổng một phần, toàn phần, kèm tiền sinh hoạt phí, v.v. đối với các đối tượng sinh viên đáng được ưu tiên khác nhau để khuyến học và đảm bảo công bằng xã hội. Nhưng những khoản học bổng đó phải được bù lại từ các nguồn ngân sách khác (nhà nước, doanh nghiệp, quĩ từ thiện của cựu sinh viên, v.v.) thì mới đảm bảo cho đại học có đủ tiền để phát triển và đảm bảo chất lượng.
Tự chủ tài chính là giải pháp “cởi trói” cho đại học
Trong tình hình hiện tại của Việt Nam, tự chủ tài chính là một trong các biện pháp hữu hiệu để chống lãng phí, tham nhũng, và thực hiện chế độ với giảng viên được tốt hơn. Một số đại học đang thực hiện thí điểm tự chủ về tài chính, đã trả lương được cao hơn cho các giảng viên so với các đại học không tự chủ về tài chính, ngay cả khi những trường này thu được tiền (kể cả tiền học phí và tiền từ ngân sách nhà nước) tính trên đầu sinh viên ít hơn ở các đại học không tự chủ tài chính.
Trả lương thấp cho giảng viên không phải là tiết kiệm mà là lãng phí
Hiện tại thu nhập trung bình của các giảng viên ở Việt Nam mới chỉ xứng bằng 1/3 công suất lao động của họ, tức là họ đáng nhẽ phải có thu nhập cao gấp 3 hiện tại mới xứng với công việc của họ. Việc trả lương thấp này, không những chỉ là một sự bất công lớn với ngành đại học so với nhiều ngành khác (khi mà chẳng hạn thu nhập củagiáo sư không bằng thu nhập của một số kỹ sư hay thạc sĩ mới ra trường), mà còn tạo nên sự lãng phí vô cùng to lớn về tiềm năng của ngành đại học: trung bình các giảng viên đại học bị lãng phí trên 50% tiềm năng công suất lao động của mình vì thiếu điều kiện làm việc và quá mất thời giờ vào chuyện cơm áo gạo tiền. Đồng thời, việc trả lương thấp này gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, và không khuyến khích được thế hệ trẻ đi theo khoa học.
Các đại học có ích nhất cho xã hội là các đại học phi lợi nhuận
Ngay ở các nước phát triển, các đại học lớn nhất đều phi lợi nhuận, dù là đại học công như UC Berlekey hay đại học tư như Yale. Các đại học đó đem lại lợi ích chung rất lớn cho xã hội, lợi ích mà chúng mang lại lớn hơn nhiều lần so với tiền của mà xã hội đầu tư vào chúng. Còn các đại học vị lợi nhuận chỉ phục vụ một mảng thị trường nào đó, với mục đích hàng đầu là đem lại lợi nhuận cho các cổ đông chứ không phải là cho toàn xã hội. Bởi vậy, tự chủ tài chính không có nghĩa là biến đại học thành công ty cổ phần để phục vụ lợi ích của cá nhân hay nhóm lợi ích.
GS. Nguyễn Tiến Dũng
Mạnh Hải (Lược ghi)
Theo dân trí
SGK chưa tạo thuận lợi cho giáo viên, học sinh
Theo GS.TS Đinh Quang Báo, sách giáo khoa (SGK) hiện nay còn bất cập so với những gì mà thời gian tới chúng ta sẽ làm. Hiện nay, SKG chưa tạo thuận lợi cho giáo viên và học sinh dạy và học theo hướng "tích hợp".
Sau khi kết thúc hội thảo quốc tế "Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào điều kiện Việt Nam" do Bộ GD-ĐT Việt Nam và Bộ Giáo dục và Trẻ em Đan Mạch phối hợp tổ chức, GS. TS. Đinh Quang Báo - nguyên hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, người được Bộ GD-ĐT cử làm Ban thường trực đề án đổi mới chương trình, SGK khẳng định: "Các chuyên gia Đan Mạch đã cho chúng ta một cách nhìn khác về đổi mới giáo dục".
SGK chỉ là một yếu tố để thực hiện chương trình
Theo GS Đinh Quang Báo, hiện nay dư luận hiện có ý kiến cho rằng sách giáo khoa (SGK) có nhiều bất cập nhưng ở đây chúng ta phải xác định cho rõ là bất cập ở những điểm nào. Về mặt nội dung khoa học thì SGK nó có thể những sai sót nhỏ ở chỗ này chỗ kia, đây không phải là vấn đề quá lớn. Mấu chốt ở đây là SGK phải đổi mới cho phù hợp với quan điểm chỉ đạo của chương trình. SGK chỉ là cái thể hiện, là 1 yếu tố để thực hiện chương trình chứ SGK không phải là tất cả.
Giáo viên vẫn là "vai diễn" chính trong việc đổi mới giáo dục
Với cách nghĩ như vậy, SGK hiện nay còn bất cập so với những gì mà thời gian tới chúng ta sẽ làm. Hiện nay, SKG chưa tạo thuận lợi cho giáo viên (GV) và học sinh (HS) dạy và học theo hướng "tích hợp". Đây là điều mà thời gian sắp tới cần phải đổi mới một cách rất căn bản.Từ việc xác định thành phần, cơ cấu nội dung, cách cấu trúc nội dung của SGK, việc thể hiện tích hợp giữa các SGK gồm các môn học khác nhau, ví dụ SGK môn khoa học tự nhiên gồm Lý, Hóa, Sinh thì việc thể hiện từng lĩnh vực chuyên ngành và việc khớp nối giữa các lĩnh vực đó với nhau.
"Hiện nay cũng có ý kiến cho rằng chương trình quá nặng thậm chí là dùng từ quá tải nhưng theo quan điểm của tôi thì cần phải nhìn nhận là thể là do nó hơi nặng về những điều không thật sự cần thiết, những điều rất cần thiết lại thiếu, không cân đối giữa các điều ấy thì đúng hơn. Khi chúng ta dạy những điều không cần thiết, không tập trung vào những trọng số thì lúc đó trở nên quá tải. Nếu theo yêu cầu để phát triển năng lực HS thì tôi cho là SGK của chúng ta so với các nước không phải là quá tải" - GS Đinh Quang Báo nhấn mạnh.
Cũng theo GS Báo, hội thảo lần này có cách tổ chức nội dung logic, các chuyên gia làm việc một thẳng thắn và có nhiều ý kiến đóng góp tích cực. Đầu tiên các chuyên gia nước ngoài trình bày kinh nghiệm của các nước, những vấn đề về lí luận, xu hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay của thế giới. Từ đó xác định mục tiêu của con người thời đại mới, các nhóm như Toán, Khoa học xã hội, Mỹ thuật..., sẽ tự xác định lấy mục tiêu của mình.
Hội thảo lần này cũng cho chúng ta một nhận thức rằng, chương trình, SGK chỉ là một yếu tố "tĩnh". Thay đổi chương trình, SGK có thể là khó nhưng không khó bằng việc sau này "kịch bản" đó diễn ra như thế nào để mang lại hiệu quả, đây là một vấn đề khá nan giải. Trong tương lai, SGK sẽ như là kịch bản mang yếu tố kiến tạo và có hướng mở. Kết quả dạy và học phụ thuộc rất nhiều vào vai trò chủ động của GV. Vai diễn GV quyết định đến sự tiếp thu và vận dụng kiến thức, kĩ năng của HS.
Cần đánh giá giáo viên theo hướng mới
Trong bài trình bày bản thu hoạch kết thúc hội thảo, GS Đinh Quang Báo chia sẻ, hiện nay cách đánh giá GV của chúng ta là chưa hợp lý.Đánh giá GV của ta xưa nay là nhìn vào GV thao tác để đánh giá GV, do đó người đánh giá ngồi bên dưới lớp nhìn GVthao tác trên bảng dẫn đến bị co cụm. Nhưng đối với nước ngoài thì ghế ngồi đánh giá lại ở trên cùng bởi họ không quá chú trọng nhìn vào thao tác của GV mà lại tập trung quan sát vào sự chuyển biến của từng học trò, từ diễn biến tâm lý cho đến kết quả học tập. Đánh giá GV phải nhìn vào sản phẩm mà họ tác động vào.
"Vấn đề này đã được các chuyên gia trao đổi khá sâu ở hội thảo lần này và chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề sâu sắc mà Việt Nam cần phải học hỏi" - GS Báo trình bày quan điểm.
Cũng theo GS Báo thì ngay như bản thân cách làm hiện nay là lấy ý kiến đánh giá của HS về GV cũng cần phải thay đổi. Ở đây không nên nhìn nhận là HS đánh giá GV đó tốt hay không tốt mà cần đặt ra vấn đề mình chuyển biến như thế có thỏa mãn hay không. Họ phải tự đánh giá được là với sự tác động của GV thì được chuyển biến như thế nào? Đây là một vấn đề cần phải được quan tâm trong việc bồi dưỡng, đào tạo GV trong thời gian tới.
S.H
Theo dân trí
Bàn đổi mới chương trình, SGK phổ thông Đề án Đổi mới chương trình, SGK phổ thông sau năm 2015 được các giảng viên, chuyên gia và nhà quản lí cao cấp VN và Đan Mạch đưa ra "mổ xẻ" trong 3 ngày (10-12/12). Ngay trong ngày khai mạc, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước lo ngại về tính khả thi của Đề án... Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh...