Trái đắng từ việc chú trọng dạy “chữ” hơn “dạy người”
Nhìn nhận về bức tranh toàn cảnh của năm qua, một nhà tư vấn tâm lý giáo dục đưa ra nhận định: 2012 là một năm ghi dấu ấn kỷ lục của những vụ việc đau lòng liên quan đến những người “có học”.
Học cao, học thấp đều “ra tay”
Tháng 1/2012, tại TPHCM, một phụ huynh lên tiếng tố cáo cô giáo của trường mầm non Mai Anh (Vĩnh Lộc B, Bình Chánh) đã tát và gây tổn thương vùng kín của con mình. Không lâu sau đó, tháng 3/2012, tại trường mầm non Hương Sen (Đà Nẵng), một giáo viên bị tố đã lôi học sinh vào nhà vệ sinh và dùng thước đánh nhiều lần vào chân gây ra những vết bầm tím cùng với nỗi sợ hãi, hoang mang cho các cháu.
Trong ba ngày 7 – 9/9/2012, tại thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk), nghi ngờ người yêu có “bồ” mới, nữ sinh viên một trường đại học ở TPHCM đã nhiều lần vác dao truy sát cả bạn trai lẫn “tình địch” và ở cuối “hành trình truy sát” này, người bạn trai vĩnh viễn ra đi… Hay tại Bắc Ninh, tháng 9.2012 một số phụ huynh học sinh trường mầm non Hương Mạc tố cáo với công an thị xã Từ Sơn về việc cô giáo lớp 5 tuổi số 3 trường mầm non Hương Mạc 2 dán băng dính vào mồm học sinh để “giữ trật tự”.
Nữ sinh đánh hội đồng.
Những vụ việc tương tự như thế, thầy cô giáo “ra tay” với học sinh, học sinh “trả đũa” thầy cô giáo, “xử” lẫn nhau, đánh hội đồng… được đăng tải thường xuyên trên các trang báo mạng trong thời gian gần đây, gây ra nhiều dư luận bất bình và dẫn tới cả những hậu quả đáng tiếc. Không chỉ “ra tay” trong đời thực, các bạn trẻ còn lập ra những hội “nói xấu thầy cô giáo”, “nói xấu bố mẹ” trên mạng ảo facebook và đáng buồn là những hội này có không ít thành viên tham gia. Thậm chí, những vụ việc xảy ra ngay giữa thủ đô “ngàn năm văn hiến” còn đau lòng hơn, như con cái đẩy bố già ốm ra vỉa hè nằm suốt 8 tiếng trước sự chứng kiến của thiên hạ; vợ tố chồng cùng con trai đánh trọng thương phải nhập viện…
Ngày 7/9, nhiều người dân quanh khu vực phố Núi Trúc (Đống Đa, Hà Nội) bất bình khi chứng kiến cảnh ông N.V.N (87 tuổi) sau 2 tháng nằm viện được các con ông đưa tới nhà người con dâu cả. Nhưng người con dâu V.T.T.H (51 tuổi) quyết không mở cửa để đưa ông N. vào nhà, nên các con đã đặt ông nằm ngay vỉa hè trên một manh chiếu mỏng, đắp trên người cái chăn mỏng dưới trời khi nắng, lúc mưa gần 10 tiếng đồng hồ, từ 12h tới 20h.
Khi “truy tìm” gia cảnh nhà ông N., người ta mới kinh ngạc khi thấy một gia đình các con cháu được học hành đến nơi đến chốn, thành đạt và khá giả lại có hành động bất nhẫn như vậy: Một người là Y tá trưởng Bệnh viện mắt Hà Nội đã về hưu, một người hiện là kế toán của một trường trung cấp sư phạm mẫu giáo ở Kim Giang, con rể công tác tại trường ĐH Thủy lợi…
Giữa tháng 9/2012 cũng xảy ra một vụ đình đám khác là vụ “hai bố con đánh mẹ gãy cổ”. Nạn nhân của vụ việc phải nhập viện là bà Lê Thị Liên (phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội). Hai “nhân vật chính” trong việc “đánh mẹ” là người chồng – vốn là giáo viên trường THCS Nguyễn Phong Sắc (Hai Bà Trưng, Hà Nội), và cậu con trai – cũng có trình độ đại học. Thậm chí “nhân vật phụ” là cô con dâu cũng có tấm bằng đại học…
Nền giáo dục không lo dạy làm người
Một điểm lạ là những vụ việc nêu trên xảy ra không phải trong những gia đình thất học mà lại ở những gia đình trí thức, thậm chí có người làm nhà giáo đàng hoàng và gia cảnh thì không nghèo. Khi nhìn nhận về thực tế này, thầy Hoàng Văn Tâm – Phòng Công tác Chính trị Sinh viên ĐH Sài Gòn đưa ra quan điểm: Không phủ nhận nguyên nhân từ những “lỗ hổng” trong việc dạy đạo đức của giáo dục chính quy, song cũng phải nhìn nhận một thực tế các yếu tố tác động xấu đến từ bạo lực trên phim ảnh, hoặc những thông tin xấu lan tràn không kiểm soát đến từ mạng Internet… cũng khiến bức tranh này “ảm đạm” hơn.
Đây chính là mặt trái của sự mở cửa, giao lưu trong “ thế giới phẳng”. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng giới trẻ ngày nay do có điều kiện mở mang kiến thức, tiếp xúc với thế giới, nên các em cũng ý thức cao hơn thế hệ cha anh về quan điểm “dân chủ”. Những người thầy không chỉ là những khuôn thức mẫu mực nhưng xa vời, là tấm gương để noi theo mà đã trở nên gần gũi, chân tình hơn với các em. Các em đã có thể trao đổi, phản biện thẳng thắn với các thầy cô giáo về mọi vấn đề, từ kiến thức đến quan niệm, lối sống…
Tuy nhiên, ở rất nhiều trường hợp, do độ tuổi của các em chưa đủ lớn để nhận định về vấn đề cộng thêm sự “dân chủ” thiếu sự uốn nắn, hướng dẫn của nhà trường, gia đình nên đã xảy đến tình trạng “dân chủ quá đà”. Và hệ quả là nhiều trẻ xem việc nói xấu, bôi nhọ nhân cách của thầy cô giáo, bố mẹ là điều rất “tự nhiên”(!?) – thầy Tâm kết luận.
Video đang HOT
Đó là chưa kể đến thực tế cũng ghi nhận những đối tượng được cho là mẫu mực của HSSV là đội ngũ thầy cô giáo trong nhà trường thì cũng đã xuất hiện với những hình ảnh có “tì vết”. Đơn cử như vụ thầy cô giáo hành xử bất công, đánh học sinh, hay những cô giáo mầm non được đào tạo bài bản cũng vẫn có những hành xử tàn nhẫn với trẻ… Chính điều này đã bêu gương xấu cho các em.
Như chia sẻ của bà Đỗ Thị Kim Dung – khoa Giáo dục mầm non, trường ĐH Sư phạm Hà Nội, thì “sự lỏng lẻo trong quản lý, sự thiếu sức răn đe của pháp luật hay sự yếu kém về trình độ chuyên môn mầm non không phải là những nguyên nhân chính dẫn đến nạn bạo hành trẻ em. Tất cả những sự việc đau lòng ấy chính là tiếng chuông khiến chúng ta giật mình nhìn nhận lại lòng nhân ái trong đạo đức người giáo viên nuôi dạy trẻ hiện nay. Chỉ có sự vô cảm, thiếu lòng nhân ái, bao dung mới có thể khiến các bảo mẫu, giáo viên hành xử tàn bạo, nhẫn tâm với trẻ một cách lạnh lùng như trong những vụ việc đáng xót xa đã diễn ra”.
Môn học đạo đức “hiện diện” ở tất cả các bậc học phổ thông, song thiếu hợp lý nên hầu như không phát huy hiệu quả (ảnh minh họa).
Còn GS-TS Hoàng Xuân Sính – Phó Chủ tịch UBTƯ Mặt trận Tổ quốc VN nhận định: Có thể nói trong 12 năm từ tiểu học đến hết THPT, giáo dục chỉ làm được việc dạy kiến thức, còn việc dạy người thì chưa làm được gì. Chúng ta không dạy học sinh chăm chỉ và tiết kiệm trong đời sống hàng ngày, nhưng đó lại là những đức tính để một dân tộc giàu có. Người ta thường nói: Cứ xem người dân hành xử ở nơi công cộng thì sẽ đánh giá được ngay giáo dục của nước họ. Dạy chữ không được quên dạy người. Con người có học phải là con người tử tế, phải biết xấu hổ với các hành động không tốt, không đẹp.
Nhìn lại chương trình giáo dục của ta, việc trang bị “đạo đức” hiện diện xuyên suốt từ bé đến lớn. Bậc mầm non đã có giáo dục lễ giáo, bậc tiểu học là môn đạo đức, bậc trung học là môn giáo dục công dân. Tuy nhiên, chương trình sách giáo khoa quá ôm đồm, nặng về lý thuyết không gắn liền với đời sống, thiếu kỹ năng sống, không tạo được dấu ấn, hiệu quả cụ thể trong việc hình thành nhân cách học sinh. Chương trình sách giáo khoa giáo dục công dân bậc phổ thông nhiều kiến thức mang tính triết học, hàn lâm, mang tính áp đặt, nhồi nhét, khô cứng, thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo đức đúng đắn, chưa tạo dấu ấn trong tâm hồn học sinh khiến học sinh dễ bị tác động của hoàn cảnh xã hội.
Khi nhìn nhận vấn đề này, Nhà giáo ưu tú, thầy Nguyễn Văn Ngai – nguyên PGĐ Sở GDĐT TPHCM cũng băn khoăn: Nên chăng phải rà soát lại những gì mà nền giáo dục của ta đang “trang bị” cho HSSV. Trong nội dung giảng dạy thực tế, có đến 99% là kiến thức các môn học, còn lại một tỉ lệ hiếm hoi dành cho nội dung giáo dục nhân cách và những kỹ năng mềm khác. Điều này thể hiện ngay chính ở quan điểm của giáo viên đối với HSSV với cái nhìn “coi trọng” những học sinh giỏi các môn văn hóa (toán, văn…) chứ những học sinh giỏi về nghệ thuật giao tiếp, ứng xử đẹp, hay thể hiện “tài vặt” gì đó trong thể dục, nhạc họa… thì gần như chẳng mấy được thầy cô “màng tới”.
Ở bậc học đại học, một số trường do đặc thù đào tạo, giáo dục đạo đức mới tạm có chỗ đứng nhất định, trở thành môn học bắt buộc, nhưng quá trình giáo dục đạo đức thường được thực hiện gắn với tính đặc thù nghề nghiệp. Ví dụ, ở trường ĐH Quản trị kinh doanh, SV được học đạo đức kinh doanh; SV ĐH Y được học đạo đức của ngành y (y đức); ĐH An ninh, Học viện cảnh sát nhân dân dạy đạo đức nghề nghiệp – đạo đức của người công an… chứ rất ít chú ý đến giáo dục đạo đức truyền thống, đạo đức ứng xử, giao tiếp trong xã hội hiện đại.
Đó là chưa xét đến trên bình diện rộng hơn, hầu hết các trường bậc ĐH khác, giáo dục đạo đức hoàn toàn không có chỗ đứng. Ngay ở những trường ĐH lớn như ĐH sư phạm Hà Nội hay ĐH khoa học xã hội và nhân văn, môn đạo đức học cũng chưa được quan tâm đúng mức, không phải SV tất cả các khoa đều được học môn này. Còn những khoa có giảng dạy môn đạo đức học thì thời lượng cũng quá ít, có 2 tín chỉ nên cũng chỉ dừng lại ở những nội dung cơ bản chứ không đủ để đào sâu kiến thức, chưa đi được vào đạo đức nghề nghiệp.
Theo Lao Động
Tìm hướng đổi mới ngành Ngữ văn ở Việt Nam
Hôm qua 5/1 tại Trường ĐH Sư phạm Huế (TP Huế) đã diễn ra "Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam" do Bộ GD-ĐT tổ chức, thu hút hàng trăm nhà khoa học, giáo viên, nghiên cứu về văn đến tham dự.
Đến dự hội thảo, có TS. Nguyễn Vinh Hiển - Thứ trưởng Bộ GD&ĐT và lãnh đạo tỉnh TT-Huế, ĐH Huế và các trường thành viên ĐH Huế. Điều bất ngờ là số lượng khách đến tham dự đã tăng đột biến khi vượt quá số người mời vì sự quan tâm đến tính chất hội thảo.
Các vấn đề chính đã được trình bày tại hội thảo đáng chú ý như: "Dạy học ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - Hiện trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan"; "Một số vấn đề về đánh giá chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới"; "Tiếp tục hoàn thiện đổi mới chương trình và phương pháp dạy học ngữ văn"; "Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ngữ văn hiện nay - Thực trạng và giải pháp"...
Ngổn ngang bất cập của ngành Ngữ văn trong nền giáo dục nước nhà
Theo Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, chương trình giáo dục phổ thông nói chung và chương trình, SGK Tiếng Việt/Ngữ văn nói riêng đã thực hiện được 10 năm đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần phải xem xét và thay đổi.
Có thể thấy, Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2010-2020 và Chương trình hành động của Chính phủ đã xác định một trong các giải pháp phát triển giáo dục là: "Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước, thực hiện đổi mới CT và SGK từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương".
Điều kiện thuận lợi hơn là các dự thảo đề án Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam và đề án Đổi mới chương trình và SGK sau 2015 cũng đã được soạn thảo và tích cực hoàn thiện. Đây chính là những cơ sở pháp lý và vững chắc cho việc chuẩn bị đổi mới, phát triển chương trình môn học.
Bên cạnh đó, chương trình và SGK hiện hành đã thực hiện trong một thời gian khá dài (5 năm đối với lớp 12 và 11 năm đối với lớp 1 và lớp 6) đủ để giáo viên và các cơ quan chỉ đạo dạy học nhìn thấy rõ hơn những ưu điểm cũng như hạn chế của nó. Sau nhiều lần thay đổi, kinh nghiệm và trình độ xây dựng phát triển chương trình giáo dục của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ; một số phương diện đã cập nhật được với trình độ quốc tế và khu vực. Lý luận phát triển chương trình và cơ sở vật chất đã có nhiều bước tiến so với các lần thay đổi trước, kể cả lần gần đây nhất. Và sự mở rộng giao lưu quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận tư liệu dạy học - các phương pháp dạy học tiên tiến - khoa học đánh giá hiện đại và kinh nghiệm phát triển chương trình và SGK.
Hơn 500 người là đại biểu, giáo viên, học sinh, sinh viên quan tâm đến ngành Ngữ văn đã đến dự hội thảo
Mục đích của Hội thảo lần này hướng đến 2 mục đích lớn là: 1. Đánh giá ưu nhược điểm của chương trình, SGK hiện hành - xem xét phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS cần có gì khắc phục - Từ việc phát hiện, bồi dưỡng HS giỏi đến bồi dưỡng giáo viên và nhất là xem xét việc đào tạo ở các trường sư phạm đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học ở nhà trường phổ thông hay chưa nhằm đề xuất giải pháp giúp cơ quan chỉ đạo dạy học, giáo viên và các trườngđiều chỉnh có hiệu quả việc dạy học Ngữ văn ngay trong những năm tới. 2. Từ việc nhận thức bối cảnh và những yêu cầu mới, Hội thảo bước đầu nêu lên những định hướng phát triển của chương trình môn học, từ đó bàn bạc và góp ý kiến cho việc chuẩn bị điều chỉnh, xây dựng lại chương trình, SGK môn học Ngữ văn cho giai đoạn sau 2015.
Về cách đổi mới Ngữ văn trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã nêu ra khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Cụ thể là chương trình và SGK Ngữ văn theo yêu cầu mới đặt ra nhiều vấn đề không dễ giải quyết. Trước hết là phải tập trung năng lực người học, coi trọng khả năng "làm được", "vận dụng được" những gì đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, qua đó mà phát triển tư duy, óc sáng tạo.
Trong khi thực trạng giáo dục nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở nước ta đang có nhiều hạn chế, bất cập thì điều kiện cải thiện tình hình cũng có nhiều khó khăn. Đặc biệt là về cơ bản, nước ta còn nghèo, các cơ sở, vật chất, thiết bị, trường lớp... chưa thể đáp ứng các đòi hỏi của dạy học hiện đại, nhất là về phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Chính sách, chế độ cho giáo viên còn chưa thỏa đáng, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần nhất là ở các vùng sâu vùng xa. Trong khi, tốc độ phát triển và nhu cầu học tập của người dân ngày càng tăng, sĩ số/đầu lớp khó giảm, tạo ra mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng giáo dục.
Chất lượng đào tạo bồi dưỡng giáo viên còn nhiều bất cập; đầu vào của các trường sư phạm ngày càng có chất lượng thấp, nhất là các môn khoa học xã hội, trong đó có môn ngữ văn. Học sinh không thích học văn, giáo viên không nhiệt tình dạy văn, sinh viên không muốn học ngành văn; giáo trình đào tạo sư phạm Ngữ văn vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được những yêu cầu mới... tạo thành một vòng luẩn quẩn, tác động lẫn nhau làm cho môn học này nhiều nơi trở nên thiếu sinh khí.
Và vấn đề chưa đào tạo và phát triển được một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về xây dựng, thiết kế, phát triển chương trình môn học. Phần lớn vẫn là kiêm nhiệm, làm theo hợp đồng, nghề tay trái... Nhiều người tham gia làm chương trình và viết SGK nhưng chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ, chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của nghề làm chương trình và SGK theo đúng nghĩa.
Những hạn chế của SGK Ngữ văn tại Việt Nam đa số được đánh giá là còn rất "cứng nhắc" - không vận động kịp với thế giới đang phát triển từng ngày.
Đặc biệt, hội thảo đã đánh giá SGK Ngữ văn dành cho Trung học hiện nay còn nhiều hạn chế. Cụ thể là: Nhiều bài học, nhất là ở các lớp trên nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS; Một số nội dung còn cao so với trình độ nhận thức HS; Thời lượng dành cho một số nội dung còn chưa hợp lý và hầu hết các tác phẩm văn học không phù hợp với tâm lý - xu hướng đọc sách của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập môn văn của HS.
"Làm thế nào để môn học Ngữ văn xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó, thực sự là một thách thức lớn mà vai trò quyết định thuộc về đội ngũ các nhà giáo, các tác giả xây dựng chương trình và SGK" - Thứ trưởng trăn trở.
Tìm phương pháp đổi mới ngành học có "tuổi thọ" cao nhất Việt Nam
Theo PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Ngữ văn là môn học có "tuổi thọ" cao nhất ở nhà trường phổ thông. Suốt hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, khái niệm "đến trường", "đi học" chủ yếu là học Ngữ văn. Trước hết là học lễ nghĩa và sau đó là để biết đọc, biết viết, từ đó mà học đạo lý, luân lý, hình luật, chính trị, triết lý...
Có 3 vấn đề cần chú ý trong xác định một chiến lược dạy học nói chung và dạy Ngữ văn nói riêng, theo PGS Thống là: Người giáo viên cần biết tự thay đổi liên tục để thích nghi với những biến động của xã hội. Tự học và học suốt đời là một yêu cầu thực sự đối với mọi người, nhất là trí thức - những người thầy đứng trên bục giảng.
Dạy học Ngữ văn cần tập trung hình thành cho HS phương pháp học và học phương pháp học. Phương pháp dạy học phải tạo cho HS tính hiếu kỳ, tò mò và sự đam mê để họ tự đi tìm và lý giải. qua đó mà hình thành năng lực. Không nhồi nhét kiến thức, không bắt nhớ máy móc, cần biết quên cái cụ thể, chi tiết; chỉ nhớ cách làm, cách xử lý vấn đề... giúp HS tự học, tự khám phá, tự kích thích sáng tạo. Giờ văn học trước hết hãy giúp HS niềm yêu thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của thế giới nghệ thuật rồi sau đó mới là những yêu cầu khác.
Nhà trường phổ thông trong giai đoạn tới không chỉ chú ý khả năng tư duy loogic, biện chứng... mà cần lưu ý hình thành "khả năng suy tưởng, sự mẫn cảm", những "vẻ đẹp thẩm mỹ và xúc cảm". Trong thế giới hiện đại, điều đó còn quan trọng hơn cả tư duy phân tích - lôgic. Yêu cầu này là hết sức đúng với bản chất của môn Ngữ văn.
Nhiệm vụ chính sẽ đặt lên mỗi một bản thân các nhà giáo Ngữ văn, các nhà biên soạn chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn. Làm thế nào để phát triển Ngữ văn đúng với quỹ đạo nó đi trước đây không hề là một điều đơn giản.
Về vấn đề đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới, GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết - Chủ tịch Hội đồng bộ môn Ngữ văn nêu lên chúng ta cần tham khảo cấu trúc mới của một số sách giáo khoa nước ngoài. Ví dụ như trong sách giáo khoa Ngôn ngữ tiểu học của Columbia thì mỗi tài liệu gồm nhiều mô-đun; mỗi mô-đun do một số bài học cấu thành; và mỗi bài học được chia thành các phần với những mục tiêu khác nhau. Mỗi phần gồm 3 loại hoạt động: Các hoạt động chính - Các hoạt động thực hành - Các hoạt động ứng dụng. Sau mỗi phần, HS được đánh giá để ghi nhận sự tiến bộ của mình.
Riêng sách giáo khoa Ngữ văn cấp THPT của Hàn Quốc (từ lớp 11) có 6 môn tự chọn với 6 cuốn sách giáo khoa là: Văn học - Quốc ngữ trong sinh hoạt - Đọc - Viết - Nói - Ngữ pháp. Một điểm nhìn để tiếp cận nước ngoài nữa là vấn đề so sánh chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam và môn tiếng Anh nghệ thuật của bang California (Mỹ)...
Để kết lại, ý nghĩa của môn Ngữ văn được Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh như một sự ghi nhớ đối với toàn thể các thầy cô giáo, học sinh: "Môn Ngữ văn góp phần rất lớn nhằm hình thành và phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học. Chính vì thế, không có bất cứ nước nào coi nhẹ chương trình môn học này".
Đại Dương
Theo dân trí
Ai có trách nhiệm cứu bong bóng ĐH"? Có nhiều ý kiến xung quanh đề tài "giải cứu bong bóng ĐH" nhưng chưa ai nhắc đến người đã ký quyết định cho mở trường ĐH, CĐ ngoài công lập. Vì thế trong cuộc khủng hoảng bong bóng giáo dục này, Nhà nước không nên "mặc cho nó chết" - mà có trách nhiệm vực khối trường giáo dục bậc cao tư...