Tổ chức lại hệ thống đại học để đủ sức cạnh tranh
Tổ chức lại hệ thống giáo dục đại học và làm rõ chức năng, hoạt động của đại học phi lợi nhuận là một trong những chủ đề được đưa ra bàn thảo tại Hội nghị góp ý về dự thảo Luật giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung một số điều diễn ra chiều 24/8.
Hội nghị góp ý về dự thảo Luật giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung một số điều diễn ra chiều 24/8. Ảnh: Nguyễn Thảo
Cấu trúc đại học phải phù hợp thế giới để đủ sức cạnh tranh
Nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho rằng, để hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) nước ta tường minh, phù hợp với hệ thống GDĐH thế giới thì chỉ nên bao gồm: đại học (university) và trường đại học (college).
Trường đại học gồm các khoa và viện nghiên cứu. Đại học gồm các trường chuyên ngành (school), khoa, viện nghiên cứu. Đại học quốc gia, đại học vùng gồm các trường đại học thành viên.
Và trường chuyên ngành do đại học quyết định thành lập, gồm các bộ môn và trung tâm nghiên cứu.
Theo mô hình này, về lâu dài, hệ thống GDĐH nước ta sẽ gồm các đại học lớn là chính. Các trường đại học còn lại chỉ đào tạo những chuyên ngành chuyên biệt, đặc thù.
“Trong các đại học cần có sự phân biệt đại học mang tính tổng hợp và đại học mang tính tổ hợp. Các đại học này khi dịch sang tiếng nước ngoài đều là university/université nhưng khác nhau về nội hàm sẽ được làm rõ trong các văn bản dưới luật” – ông Ga nêu ý kiến.
Đại học (mang tính tổng hợp) sẽ có các trường chuyên ngành. Các trường chuyên ngành này không có tư cách pháp nhân như trường đại học. Các trường đại học có thể sáp nhập vào đại học và được cấu trúc lại thành các trường chuyên ngành/ khoa/ viện của đại học. Ví dụ, Đại học Cần Thơ có Trường Công nghệ thông tin, Trường Nông nghiệp, Viện Lúa, Viện Môi trường… hoặc Đại học Bách khoa Hà Nội có Trường Điện, Trường Luyện kim…
Còn đại học (mang tính tổ hợp) là các đại học quốc gia, đại học vùng. Nó bao gồm các trường thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ. Hiện nay 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng đã theo mô hình này.
“Sau khi Luật sửa đổi ra đời có thể thành lập thêm các Đại học mới, ví dụ như Đại học Vinh là tổ hợp các trường đại học trên địa bàn Nghệ An, hay Đại học Đồng Nai bao gồm các trường Đại học thành viên trên địa bàn…” – ông Ga đề xuất.
Theo nguyên Thứ trưởng, trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập quốc tế hiện nay, việc phát triển hệ thống giáo dục đại học nhỏ lẻ, manh mún không còn mang lại hiệu quả đầu tư, không đủ sức cạnh tranh, xếp hạng.
TS. Lê Viết Khuyến – nguyên Vụ phó Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD-ĐT cho rằng mô hình đại học đa lĩnh vực của ta hiện đang gây hiểm lầm. Ảnh: Nguyễn Thảo
Cùng chủ đề này, TS. Lê Viết Khuyến (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) bàn luận: Ở Việt Nam, các cơ sở GDĐH thường được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế- xã hội, ví dụ như: trường đại học tổng hợp, trường đại học kinh tế, trường đại học sư phạm…
Video đang HOT
Cách tổ chức như vậy gắn rất chặt với cơ chế bộ chủ quản: mỗi trường đại học luôn thuộc về một bộ chủ quản. “Điều này hoàn toàn khác với bản chất tự chủ của các đại học đa lĩnh vực – rất thích hợp với cơ chế tự chủ trong nền kinh tế thị trường” – ông Khuyến nói.
Hiện nay, các đại học đa lĩnh vực đều có cấu trúc 4 cấp: đại học – trường – khoa – bộ môn.
“Để giữ được vị thế của mình vốn là một trường đại học độc lập, các trường thành viên khi chuyển ngữ cấu trúc 4 cấp trên qua tiếng Anh thường sử dụng mô hình: university – university – Faculty – Department, gây ra sự hiểu lầm trong các đồng nghiệp nước ngoài cho rằng các đại học đa lĩnh vực ở Việt Nam là các tập đoàn đại học”.
Với mô hình như vậy, cấp “đại học” có thể được ví như cấp “bộ chủ quản” đối với các trường đại học thành viên. “Vì tồn tại đồng thời 2 “bộ chủ quản” nên dĩ nhiên xuất hiện nhiều ý kiến đề xuất nên bỏ bớt đi một cấp “bộ chủ quản”, tức là giải thể các đại học đa lĩnh vực” – TS. Khuyến nêu thực tiễn.
Không phải ‘phi lợi nhuận’ là học phí thấp
Theo ông Trần Đức Cảnh – Uỷ viên Hội đồng Quốc gia giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực, mô hình trường phi lợi nhuận (PLN) trong các dự thảo Luật hiện nay chưa diễn đạt hết ý nghĩa và mục đích của loại hình trường này.
Ông nêu 2 tiêu chí của trường PLN đang phát triển mạng ở các nước là: không có tính sở hữu (tức là không có cổ đông và chia cổ tức) và tính giải trình cao. Hội đồng quản trị (HĐQT) là bộ phận có quyền hành và trách nhiệm cao nhất của trường. HĐQT thuê Hiệu trưởng điều hành và quản lý trường.
“Nguồn thu chính của trường gồm học phí, đóng góp của xã hội, hợp đồng với Chính phủ và doanh nghiệp, nguồn thu từ đầu tư… Đa phần nguồn thu chính của trường là học phí. Học phí thu ở các đại học PLN cao hơn trường công và trường lợi nhuận rất nhiều, vì xã hội đánh giá phần lớn loại trường này chất lượng và đẳng cấp hơn. Họ cũng có khả năng cấp học bổng cho nhiều sinh viên nghèo, học giỏi” – ông nêu thực tế các trường đại học PLN ở Mỹ.
Ông Cảnh cho biết, hiện nay không có trường “lợi nhuận” nào nằm trong top 500 trường hàng đầu của Mỹ.
Ở nước ta hiện nay vẫn còn xa lạ với loại hình trường này, nhưng ông tin rằng đây là mô hình có thể giúp cho GDĐH Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Nhưng nếu không giải quyết được tính sở hữu và cấu trúc của loại hình này thì đại học PLN chỉ mang tính “nửa mùa”, thiếu sự bền vững và lâu dài.
Ông đề xuất, mô hình này được đưa vào Luật Giáo dục (PLN cho các cấp chứ không riêng đại học).
Ông Phạm Huy Dũng, Phó Chủ tịch HĐQT Trường ĐH Thăng Long đề xuất làm rõ khái niệm “phi lợi nhuận”. Ảnh: Nguyễn Thảo
Cũng bàn về đại học PLN, ông Phạm Huy Dũng, Phó Chủ tịch HĐQT Trường ĐH Thăng Long đề xuất “khái niệm trường PLN để phát triển, chứ không phải PLN vì bác ái, nhân đạo… Đó là chuyện khác. Ví dụ như Harvard, hiện nay có 34.541 tỷ USD tiền quỹ và có hàng trăm người rất giàu có nhận khoản tiền đó về hoạt động để ra lãi hằng năm cho trường. Nhưng họ thu tiền học phí vẫn rất cao – 43 nghìn USD/ năm cho đại học và gần 60 nghìn USD cho bậc thạc sĩ, nhưng họ vẫn là PLN”.
Nguyễn Thảo
Theo vietnamnet
Những đề xuất "táo bạo" về bỏ biên chế giáo viên và đào tạo sư phạm
Có ý kiến cho rằng, nên bỏ biên chế vĩnh viễn với cán bộ quản lý và giáo viên công lập, đào tạo giáo viên nên điều chỉnh theo hướng xác định quota...
Chính phủ đang thực hiện giảm biên chế theo lộ trình và ngành Giáo dục cũng không đứng ngoài cuộc. Bộ đang trình Chính phủ và Quốc hội xem xét việc nâng cao đời sống của giáo viên cũng như xem lại đào tạo sư phạm.
Những vấn đề này được đưa ra thảo luận tại Hội thảo góp ý cho Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) doỦy ban Văn hóa-Giáo dục-Thanh Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức sáng 24/8.
Nên bỏ biên chế vĩnh viễn với cán bộ quản lý và giáo viên công lập
Góp ý chính sách đối với nhà giáo, ông Nguyễn Xuân Khang, Hiệu trưởng Trường Marie Curie khẳng định: Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Nếu luật hóa được điều này sẽ có ý nghĩa tôn vinh nhà giáo rất lớn.
Ông Nguyễn Xuân Khang đề xuất nên bỏ biên chế vĩnh viễn với cán bộ quản lý và giáo viên công lập
Tuy nhiên, việc ưu đãi đó trong bối cảnh hiện nay không cải thiện đươc nhiều cuộc sống của nhà giáo. Thực tế, lương hành chính sự nghiệp công lập của nước ta rất thấp, người lao động không sống được bằng lương. Giáo viên công lập cũng trong tình trạng đó. Nguyên nhân căn bản của tình trạng này là năng suất lao động của người Việt Nam quá thấp.
"Chính sách không vẽ ra được tiền. Chỉ có năng suất lao động mới tạo ra của cải vật chất và tiền bạc.
Cũng như các ngành khác, ngành giáo dục phải cơ cấu lại hệ thống các trường công lập, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên; giảm biên chế thừa; cho nghỉ việc những người năng lực yếu kém... Làm được việc này năng suất lao động sẽ tăng, lương nhà giáo sẽ tăng, cuộc sống nhà giáo sẽ ổn định bền vững. Không cần chính sách ưu đãi kiên cường nào khác", ông Khang nhấn mạnh.
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên, ông Khang cũng đề xuất bỏ biên chế vĩnh viễn. Nên bỏ "biên chế" như hiện nay đối với cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên công lập. Tất cả đều thực hiện chế độ "Hợp đồng lao động" có thời hạn. Bởi như vậy thì người lao động có động lực để nâng cao năng lực và phẩm chất, có ý thức hoàn thành tốt nhiệm vụ, khắc phục tình trạng ỷ lại, ăn bám, dựa dẫm...
Việc khó nhất hiện nay là giải quyết hậu quả của hàng chục năm trước để lại. Biên chế công chức, viên chức quá lớn; người làm được việc thì ít, người yếu kém thì nhiều. Tâm lý bám vào Nhà nước còn đang nặng nề".
Khó đến mấy cũng phải làm bằng được. Cần có những điều luật để làm căn cứ giải quyết vấn đề này. Trên cơ sở đó Chính phủ xây dựng lộ trình triển khai thực hiện trong 5 hoặc 10 năm tới.
Ông Nguyễn Xuân Khang lấy dẫn chứng sự việc hơn 400 giáo viên bị cắt hợp đồng ở huyện Thanh Oai, Hà Nội mới đây và đánh giá câu chuyện vừa đúng nhưng vừa đau.
"Tôi thấy đau nhưng tôi còn thấy đúng. Nhưng phải chịu đau, vì nó là hậu quả của nhiều năm về trước".
Đề cập chính sách đối với giáo viên, GS.TS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) nêu quan điểm: Không nên quy định cứng tỷ lệ giáo viên/lớp mà quy định theo hướng xác định khối lượng công việc mà nhà trường cần thực hiện để đảm bảo mỗi học sinh đáp ứng được chuẩn đầu ra hoặc chương trình giáo dục. Quy định như vậy sẽ mở hơn, tạo thuận lợi cho các trường chủ động hơn. Tất nhiên cũng sẽ khó khăn hơn trong việc thực hiện giám sát của cơ quan quản lý.
Điều chỉnh theo hướng xác định quota trong đào tạo giáo viên
Về chính sách đối với sinh viên sư phạm và đào tạo sư phạm, ông Nguyễn Xuân Khang nêu quan điểm, gần đây có ý kiến thay bằng chính sách "tín dụng sư phạm": Sinh viên sư phạm được vay tiền để nộp học phí và trang trải chi phí ăn ở trong quá trình học tập, sau khi tốt nghiệp nếu làm được việc trong ngành giáo dục được một số năm nào đó thì được xóa nợ.
Đó là một sáng kiến thay thế chính sách miễn tiền học phí cho sinh viên sư phạm lâu nay. Tuy nhiên, tính hiệu quả của chính sách tín dụng sư phạm thật đáng nghi ngờ.
Có ý kiến đề xuất, thay vì đào tạo sư phạm theo nhu cầu và phân công thì nên điều chỉnh theo hướng xác định quota trong đào tạo giáo viên (ảnh minh họa)
Bởi nguyên nhân cơ bản để người ta chọn ngành sư phạm hay không là ở chỗ tốt nghiệp sư phạm có việc làm hay không và lương giáo viên có đủ sống hay không?
Nếu giải quyết được 2 câu hỏi đó một cách thỏa đáng thì ngành sư phạm thực sự sẽ có sức hút rất lớn, người ta sẽ tự xoay xở để có tiền đi học sư phạm.
Vì vậy, theo ông Khang không cần có những chính sách ưu đãi đặc biệt cho sinh viên sư phạm (như miễn học phí hay tín dụng sư phạm).
Đối với đào tạo sư phạm, GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho rằng, việc đào tạo thường cần 4 năm trong khi việc xác định nhu cầu luôn xác định cho hiện tại, các dự báo về nhu cầu thường có độ chính xác không cao. Vì vậy, thay vì đào tạo sư phạm theo nhu cầu và phân công thì nên điều chỉnh theo hướng xác định quota (hạn ngạch) trong đào tạo giáo viên.
Ví dụ Bộ GD-ĐT tập hợp nhu cầu giáo viên của từng năm, từng thời điểm xác định quota. Sau đó tổ chức thi quốc gia lấy giấy phép hành nghề giáo viên. Như vậy, sẽ tách việc đào tạo ra khỏi việc hành nghề. Khi đó, uy tín và trách nhiệm của các trường sẽ bị ảnh hưởng nếu sinh viên của mình đào tạo ra không đáp ứng được tiêu chuẩn hành nghề.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh, việc tách đào tạo khỏi hành nghề sẽ giải quyết cả về vấn đề tài chính sư phạm. Nếu chỉ thuần túy chuyển đổi từ miễn phí sư phạm sang tín dụng sư phạm thì cũng khó giúp nâng cao chất lượng đào tạo sư phạm. Giải pháp căn bản ở đây phải là quỹ học bổng sư phạm. Những thí sinh giỏi có thể được cấp học bổng sư phạm chứ không hỗ trợ học phí sư phạm trực tiếp cho các trường. Chính sách về quỹ học bổng và học bổng sư phạm giúp giải quyết việc chỉ những người thực sự quan tâm và giỏi mới đăng ký vào học bổng đó.
Tín dụng sư phạm vẫn tạo động lực về tài chính cho sinh viên cho dù họ có thể được miễn khi làm giáo viên trong tương lai và đặc biệt do những lý do khách quan mà những người học sư phạm không thể hành nghề giáo viên. Chính điều này tạo sự bất bình giữa các ngành nghề đào tạo.
PGS.TS Đặng Bá Lãm, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Khoa học giáo dục đưa ra nhận xét, đào tạo sư phạm hiện nay vẫn nhẹ về đào tạo đạo đức giáo viên, kỹ năng sư phạm.
"Chúng ta cần thay đổi trong đào tạo sư phạm, phải hút được người giỏi vào sư phạm, ví dụ ai giỏi nhạc, họa, thể thao... đều có thể trở thành giáo viên sau khi tham gia lớp chứng chỉ sư phạm. Như vậy sẽ "chiêu hiền đãi sĩ" được cho ngành sư phạm", PGS.TS Đặng Bá Lãm nêu ý kiến./.
Theo vov.vn
Đề nghị bỏ 'biên chế vĩnh viễn' đối với giáo viên Sáng 24.8, tại hội thảo góp ý dự thảo luật Giáo dục (sửa đổi), ông Nguyễn Xuân Khang, Hiệu trưởng Trường Marie Curie Hà Nội đề nghị cần có lộ trình bỏ biên chế vĩnh viễn đối với cán bộ, giáo viên trường công lập. Nhà giáo Nguyễn Xuân Khang (phải) trao đổi với lãnh đạo Bộ GD-ĐT bên lề hội nghị -...