Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh phân tích “liên thông đào tạo” méo mó vì đâu
Do thiết kế chính sách thiếu đồng bộ, sự buông lỏng quản lý chất lượng của cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo đã làm méo mó chính sách đào tạo liên thông.
Trong lịch sử giáo dục nước nhà, đào tạo liên thông có từ thời đào tạo các hệ chuyên tu cho những người từ công nhân kỹ thuật, trung học hoặc từ các trường bổ túc công- nông…để đáp ứng nhu cầu cán bộ bấy giờ.
Xét về bản chất hệ thống giáo dục, liên thông là câu chuyện tự nhiên học hết lớp một thì lên lớp hai, hết giáo dục tiểu học thì lên giáo dục trung học cơ sở và không phải học lại những gì mà người học đã học ở tiểu học; tốt nghiệp đại học và trải qua kinh nghiệm làm việc có thể học chương trình sau đại học mà không cần phải học lại chương trình giáo dục đại học.
Tuy nhiên, với sự can thiệp của nhà nước cùng với việc thiết kế cơ cấu hệ thống giáo dục, đòi hỏi việc chuyển từ cấp học này sang cấp học khác, từ giáo dục phổ thông sang giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, từ hình thức giáo dục này sang hình thức giáo dục khác đòi hỏi phải có cơ chế người ta gọi là liên thông sao cho không yêu cầu người học phải học lại những gì đã trải qua trong học tập và trong cuộc sống nghề nghiệp.
Nhìn lại gần 20 năm khi bắt đầu thực hiện thí điểm từ cuối năm 2002 đào tạo liên thông trên diện rộng, có thể thấy chính sách này đã giúp cho khá nhiều người nâng cao trình độ đáp ứng đòi hỏi trình độ, kiến thức và kỹ năng lao động, giúp giải quyết các bài toán xã hội về thất nghiệp và việc làm.
Ảnh minh họa: nguồn Trường Đại học Công nghệ miền Đông
Tuy nhiên, do việc thiết kế chính sách thiếu đồng bộ, sự buông lỏng quản lý chất lượng của cơ quan quản lý và của chính các cơ sở đào tạo đã làm méo mó chính sách đào tạo liên thông, khiến cho người sử dụng lao động không mặn mà với nhân lực được đào tạo liên thông và ảnh hưởng đến lòng tin vào một chính sách tốt.
Nguyên nhân do đâu?
Video đang HOT
Nguyên nhân đầu tiên có thể thấy là hệ thống thiếu các tiêu chuẩn đầu ra ở mỗi trình độ trong một ngành, nghề nào đó đi kèm là các điều kiện đảm bảo chất lượng cho các chuẩn đầu ra đạt được trên thực tế.
Vì không xác định một cách tương đối rõ ràng về mục tiêu đào tạo (độ rộng, sâu của kiến thức, kỹ năng) ở mỗi trình độ, nên việc công nhận miễn trừ chỉ chú ý nhiều đến nội dung và thời gian đào tạo, bỏ qua việc đối chiếu các mục tiêu học tập (hoặc chuẩn đầu ra), thực tế tổ chức thực hiện chương trình đào tạo ở mỗi cơ sở, đo lường đánh giá cũng như các điều kiện thực hành thực tập khác. Thành ra có trường Cao đẳng Y tế ở Đồng bằng sông Cửu Long nói rằng bây giờ dạy liên thông từ trung cấp lên cao đẳng không biết dạy thêm cái gì nữa.
Thứ hai là do tài chính giáo dục đại học eo hẹp, quản trị chất lượng lỏng lẻo đã có hiện tượng nới lỏng các chuẩn mực tuyển sinh, thiết kế các khóa học bắc cầu, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá trong quá trình đào tạo nhằm tạo sức hút tuyển sinh ở đầu vào để tăng nguồn tài chính đã dẫn đến chất lượng đào tạo xuống thấp.
Cộng thêm vào tâm lý và động cơ học tập là chỉ nhắm đến văn bằng mà không hướng đến trình độ hoặc năng lực nghề nghiệp, nên dễ chấp nhận, đồng thuận với việc buông lỏng chất lượng. Điều đó vô hình chung làm mất đi lòng tin của xã hội đối với chính sách đào tạo liên thông và mất lòng tin với những người được đào tạo theo cơ chế này.
Thứ ba, việc thiết kế cơ chế tuyển sinh quá nhấn mạnh đầu vào bằng cách cho người tốt nghiệp cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải thi chương trình giáo dục phổ thông là cách làm không phù hợp về khoa học sư phạm và triết lý học tập suốt đời.
Với những người học còn trẻ thì có thể tham gia được, nhưng với những người lao động đã ra trường hàng chục năm nay do nhu cầu công việc muốn nâng cao trình độ thì hoàn toàn thách thức. Cộng thêm vào đó những thay đổi của chương trình giáo dục, cách thức thi tốt nghiệp người học càng gặp khó khăn nếu muốn học liên thông. Trong khi nhờ lao động mà người học đã tích lũy rất nhiều kinh nghiệm ở nghề nghiệp thì lại không được quan tâm đến việc tuyển chọn vào học và úp tất cả người học cũ – mới trong cùng một rọ tuyển đầu vào.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện chính sách đào tạo liên thông không tốt. Lẽ ra sau một số năm đào tạo thí điểm, cần có đánh giá nghiên cứu chất lượng và hiệu quả của chính sách, cơ chế thì hầu như chúng ta không làm. Tại sao lại thi môn này hay môn kia, tại sao lại thi đầu vào chung với thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tỷ lệ có việc làm hoặc giữ được việc làm hoặc thăng tiến sự nghiệp sau khi học liên thông ra sao hoặc tỷ lệ thất bại học liên thông… thì không có nghiên cứu, đánh giá tác động chính sách. Đây là một lỗ hổng khá lớn của làm chính sách pháp luật giáo dục.
Thứ năm, việc thiết kế hệ thống không đồng bộ về dòng chảy của người tốt nghiệp trung học cơ sở, giáo dục nghề nghiệp để học các chương trình sau trung học không rõ ràng, lẫn lộn các chương trình hàn lâm với chương trình định hướng ứng dụng… Tất cả mọi người đều phải qua một kỳ thi đầu vào và học chung với những lớp học của các sinh việc đại học vốn có năng lực học tập hơn hẳn lại cùng tiến độ học tập thì hoàn toàn không hợp lý về nguyên tắc sư phạm: Với mỗi nhóm đối tượng khác nhau cần có chiến lược, phương pháp, tiến độ dạy học khác nhau thì mới thành công.
Mới đây Quy định về liên thông giữa trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng với trình độ đại học ban hành theo Quyết định số 18/2017/QĐ-TTg lại bỏ qua việc quy định liên thông cho những người tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và xa hơn thực chất lại ảnh hưởng xấu đến chính sách phân luồng sau trung học cơ sở.
Thứ sáu, hệ thống mất lòng tin vào chất lượng giữa cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo, giữa cơ sở đào tạo bậc trên và cơ sở đào tạo bậc dưới, cộng với các chính sách kiểm định, đảm bảo chất lượng không thống nhất trong toàn hệ thống, dẫn đến cơ quan quản lý có xu hướng thít chặt chất lượng đầu vào.
Giải pháp cho những vấn đề nói trên cần thiết phải rà soát lại những nội dung bất hợp lý của quy định theo Quyết định số 18/2017/QĐ-TTg quy định về liên thông giữa trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng với trình độ đại học, chú ý đến các quyết định của Thủ tướng mới ban hành về cơ cấu hệ thống giáo dục và Khung trình độ quốc gia nhấn mạnh đến chuẩn đầu ra của mỗi trình độ và điều kiện đảm bảo chất lượng.
Phải phân cấp triệt để cho các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp trong việc ký kết các thỏa thuận về liên thông (articulation agreement) để mỗi sự thay đổi chương trình của đại học sẽ được phản ánh sự thay đổi chương trình ở cơ sở giáo dục nghề nghiệp tham gia thỏa thuận, cam kết chất lượng và công nhận lẫn nhau cũng như trách nhiệm giải trình về chất lượng. Việc siết chặt bằng cách thi chung với kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông cần có lý giải khoa học hoặc cần loại bỏ và thay vào đó là hệ thống kiểm soát chất lượng ngặt nghèo hơn nhằm bảo vệ lợi ích của người học.
Trong một bước tiến xa hơn trên phạm vi quốc gia nên học tập kinh nghiệm của Canada việc thiết kế các Hội đồng liên thông ngành (Articulation committee – Canada có đến trên 60 Hội đồng như vậy theo các ngành kinh tế), để có sự công nhận chương trình và trình độ sau khi học xong ở mỗi bậc trình độ một cách thông suốt và chính là để bảo vệ lợi ích người học.
Loay hoay gỡ nút thắt đào tạo liên thông
Xung quanh việc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) có chủ trương triển khai Đề án "Thí điểm đào tạo trình độ cao đẳng (CĐ) cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS)", nhiều ý kiến cho rằng đề án này sẽ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề.
Cần sớm gỡ nút thắt đào tạo liên thông.
Dẫu thế, băn khoăn lớn nhất là khi nào "nút thắt" đào tạo văn hóa trong trường nghề được tháo gỡ, để người học có thể học liên thông lên các trình độ cao hơn.
Đào tạo liên thông còn hạn chế
Đồng tình với chủ trương đào tạo thí điểm trên, TS Đồng Văn Ngọc, Hiệu trưởng Trường CĐ nghề Cơ điện Hà Nội cho rằng, Đề án mang nhiều ý nghĩa thực tiễn nhưng để thật sự đi vào cuộc sống lại phụ thuộc khá lớn vào Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT). Bởi việc dạy các môn văn hóa cho các em tốt nghiệp lớp 9 THCS học nghề theo quy định của Bộ GDĐT hiện vẫn đang phụ thuộc vào các trung tâm giáo dục thường xuyên (GDTX).
Theo ông Ngọc, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nên được trao quyền linh hoạt với các môn văn hóa trong thí điểm. Chẳng hạn nếu các em chọn học nghề liên quan đến công nghệ, kỹ thuật, sẽ được học nhiều hơn các môn Toán, Lý, Hóa học với những nội dung các em có thể ứng dụng sau này. Ngược lại, với các em theo hướng du lịch, dịch vụ có thể được tăng cường các môn xã hội như Văn, Sử, Địa...
Trên thực tế, nhiều năm qua tháo gỡ bất cập về học văn hóa, cơ sở để người học nghề được học liên thông lên các trình độ cao hơn vẫn là bài toán nan giải. Theo PGS. TS Bùi Thế Dũng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hiện tại, Đại học (ĐH) Bách khoa Hà Nội là một ví dụ điển hình khi kiến tạo kiểu trình độ cử nhân kỹ thuật và kiểu trình độ cử nhân công nghệ với những định hướng chuyên sâu khác nhau. Định hướng của trình độ cử nhân công nghệ gần gũi với định hướng mục tiêu của trình độ CĐ, vì thế việc liên thông của hai trình độ này trở nên thuận lợi hơn. Nhìn rộng ra, đào tạo liên thông trung cấp - CĐ; CĐ - ĐH; trung cấp - ĐH hiện chủ yếu vẫn đang được các cơ sở giáo dục ĐH thực hiện.
Cần sự thống nhất
Theo tinh thần Luật Giáo dục (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1/7/2020, các cơ sở GDNN được phép dạy văn hóa. Với quan điểm đặt quyền lợi của học sinh lên hàng đầu, Bộ LĐTB&XH đã đề nghị Bộ GDĐT cho phép các trường trung cấp, CĐ đủ điều kiện được dạy văn hóa cho học sinh tốt nghiệp THCS vào học nghề hệ trung cấp. Tuy nhiên đến thời điểm này, câu chuyện đào tạo văn hóa trong trường nghề vẫn là mối quan tâm lớn.
Tại buổi họp trực tuyến góp ý quy định giảng dạy khối lượng kiến thức văn hóa THPT trong cơ sở GDNN do Hội GDNN TP HCM tổ chức mới đây, TS Lê Lâm, Hiệu trưởng Trường CĐ Đại Việt Sài Gòn cho biết, để được chứng nhận hoàn thành chương trình bậc THPT, học sinh phải học đủ 7 môn như học sinh hệ giáo dục thường xuyên (GDTX). Nếu áp dụng học đủ 7 môn trong thời gian học nghề thì phải mất ít nhất 3,5 năm đến 4 năm vì hệ giáo dục thường xuyên học 2 năm 3 lớp cùng 1,5 năm đến 2 năm học nghề. Việc kéo dài thời gian học tập là 4 năm có thể sẽ ảnh hưởng đến quyết định học nghề sau THCS của học sinh.
Đại diện nhiều trường nghề cũng kiến nghị trường CĐ, trung cấp được cấp chứng nhận hoàn thành chương trình bậc THPT cho học sinh học nghề. Bởi lẽ, nếu việc học nghề một nơi, học văn hóa rồi cấp chứng nhận hoàn thành chương trình bậc THPT một nơi sẽ gây phiền toái cho người học, phụ huynh cũng không muốn con họ phải học 2-3 nơi.
Theo TS Lê Lâm, nếu GDNN được tổ chức dạy các môn văn hóa cần xem lại biên độ thời gian đối với từng loại đối tượng chỉ cần học 4 môn (Toán, Văn và 2 môn tự chọn trong 5 môn còn lại Lý, Hóa, Sinh, Sử, Địa) hay học hoàn thành chương trình (7 môn) để xét hoàn thành chương trình giáo dục thường xuyên bậc THPT hoặc để thi tốt nghiệp THPT. Ngoài ra, nên để các em có sự lựa chọn, được học tích lũy như tín chỉ để khi nào có điều kiện, khả năng, nhu cầu có thể đăng ký thi THPT.
Thời gian qua, đa số các trường đào tạo nghề thuộc Bộ LĐTB&XH kiến nghị: Nếu Bộ GDĐT quy định, học sinh tốt nghiệp THCS theo học trung cấp nghề cần học 4 môn văn hóa, đồng nghĩa cơ hội học liên thông lên hệ ĐH bị đóng lại. Các trường cũng khẳng định, đủ khả năng giảng dạy kiến thức THPT thay vì liên kết với trung tâm GDTX như hiện nay...
PGS. TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GDĐT nhìn nhận, đang có sự chồng chéo trong quy định, quản lý giáo dục phổ thông và GDNN. Do đó, rất cần sự thống nhất, có lợi cho người học, chứ không phải là sự đánh đố.
Điểm sàn và học phí ĐH Luật TP.HCM năm 2021 Trường ĐH Luật TP.HCM vừa công bố điểm sàn xét tuyển từ thi tốt nghiệp THPT 2021 và học phí năm học mới. Điểm sàn Trường ĐH Luật TP.HCM cụ thể như sau: Trường ĐH Luật TP.HCM cho biết năm 2021 sẽ đẩy mạnh đào tạo liên thông giữa 3 ngành: Luật, Quản trị kinh doanh và Ngôn ngữ Anh (chuyên ngành Anh...