Thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục
Phát triển giáo dục và đào tạo luôn được ảng, Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện chính sách ‘ Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc’.
ặc biệt, thời gian qua trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn được ảng và Nhà nước quan tâm chăm sóc đặc biệt, ban hành nhiều chủ trương chính sách hữu hiệu, khuyến khích, ưu tiên.
Cô giáo Pơloong Thị Nhun tại lớp học ở điểm trường thôn Atu (xã Ch’Ơm, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam).
Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều nguyên nhân vẫn còn không ít trong nhóm đối tượng này đang gặp khó khăn trong thực hiện quyền tiếp cận giáo dục. Thực tế này đòi hỏi cần tiếp tục thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, thực hiện hiệu quả mục tiêu tạo nền tảng vững chắc cho phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người.
Quyền tiếp cận giáo dục là một trong những quyền quan trọng, cơ bản của con người, giúp phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. ối với trẻ em, quyền được học tập là một trong những quyền tất yếu, được Pháp luật Việt Nam quy định và bảo đảm.
Cụ thể, iều 16 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh”. Thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục cũng là một trong những mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Việt Nam. iều này được khẳng định trong các chính sách ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nói chung và đối tượng trẻ em ở những khu vực này nói riêng.
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ban hành ngày 4/11/2013, ảng ta khẳng định: “Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách”. Trong những năm qua, Chính phủ đã luôn tạo điều kiện để trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp cận giáo dục bằng việc nỗ lực ban hành, hoàn thiện các chính sách nhằm đẩy mạnh xóa mù chữ cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Về tổng thể, hệ thống chính sách phát triển giáo dục nói chung và chính sách pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được ban hành khá đầy đủ, ngày càng hoàn thiện. Theo thống kê của Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và ào tạo, có khoảng 50 văn bản từ Luật đến quyết định của Bộ trưởng Giáo dục và ào tạo liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm: chính sách ưu tiên tuyển sinh; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội; học bổng hỗ trợ học tập; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người; chính sách tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, bảo tồn văn hóa của người dân tộc thiểu số, chế độ đối với giáo viên, cán bộ quản lý…
Những chính sách này hoàn toàn phù hợp và thể hiện rõ trách nhiệm của Việt Nam khi là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Bởi iều 28 của Công ước không chỉ yêu cầu các quốc gia thành viên phải thừa nhận quyền của trẻ em được học hành mà còn chỉ rõ, để từng bước thực hiện quyền này trên cơ sở bình đẳng về cơ hội phải: Thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người; Khuyến khích phát triển nhiều hình thức giáo dục trung học khác nhau, kể cả giáo dục phổ thông và dạy nghề, làm cho những hình thức giáo dục này sẵn có và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận, và thi hành các biện pháp thích hợp như đưa ra loại hình giáo dục miễn phí và cung cấp hỗ trợ tài chính trong trường hợp cần thiết; Dùng mọi phương tiện thích hợp để giúp cho tất cả mọi người, trên cơ sở khả năng của mình, đều có thể tiếp cận với giáo dục đại học; Làm cho những hướng dẫn và thông tin về giáo dục và dạy nghề sẵn có và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận được; Có biện pháp khuyến khích việc đi học đều đặn ở trường và giảm tỷ lệ bỏ học. Dựa trên cơ sở này, các chủ trương, chính sách của ảng và Nhà nước đã được hiện thực hóa dưới nhiều hình thức khác nhau và đạt được những kết quả bước đầu khả quan.
Video đang HOT
Cụ thể, đã có nhiều mô hình trường học dành cho con em đồng bào các dân tộc, như: trường thanh niên dân tộc, trường vừa học vừa làm, trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, trường dự bị đại học dân tộc, trường thiếu sinh quân… Hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông từng bước được củng cố và phát triển.
Tính đến năm 2020, tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ đã đạt đến 90%; tỷ lệ trường học kiên cố tăng từ 77,1% (năm 2015) lên 91,3% (năm 2019); tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi ở các cấp học đều tăng… ây là những thành tựu rất đáng ghi nhận bởi vùng dân tộc thiểu số và miền núi chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên cả nước và là nơi cư trú của 53 dân tộc thiểu số với 14,12 triệu người (chiếm 14,7% tổng dân số).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi. Thực tế, đây là nhóm đối tượng phải đối diện với rất nhiều trở ngại, tiêu biểu như vấn đề giao thông vì thực tế, các cung đường miền núi vừa xa xôi, hiểm trở lại tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy hiểm. Ngoài ra, trường học nhiều nơi vẫn còn là phòng tạm, thiếu thốn cơ sở vật chất như không có phòng chức năng, thiếu các trang thiết bị công nghệ cơ bản…
Vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong quá trình dạy học cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm cơ hội đi học ở nhóm trẻ này, bởi các em còn chưa thông thạo tiếng mẹ đẻ lại phải học tiếng phổ thông nên gặp nhiều trở ngại. Từ đây nhiều em nảy sinh tâm lý chán nản, sợ học rồi dẫn đến bỏ học. Bên cạnh đó, nhiều người dân do những khó khăn về kinh tế cộng thêm tư tưởng cổ hủ, trọng nam khinh nữ, ngăn cản không cho con em mình, nhất là các trẻ em gái được đến trường. Những rào cản này khiến việc học tập của các em không chỉ bị gián đoạn mà còn khiến một tỷ lệ nhất định trẻ em không biết chữ, không được đến trường.
Mặt khác, dù hệ thống văn bản pháp luật, chính sách ưu tiên, hỗ trợ giáo dục cho nhóm đối tượng trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi được ban hành khá nhiều nhưng vẫn tồn tại những vấn đề như: chồng chéo chính sách, văn bản quy phạm pháp luật chưa được rà soát, xử lý kịp thời; việc thực thi giám sát thực thi chính sách liên quan quyền tiếp cận giáo dục của các nhóm đối tượng chưa thực sự hiệu quả; sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan còn lỏng lẻo…
ối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi, giáo dục được xem là phương thức hiệu quả nhất đem lại cơ hội phát triển bình đẳng, giúp thay đổi tương lai cho các em. Theo đánh giá của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNICEF Việt Nam), việc không được đến trường không chỉ làm giảm tiềm năng cá nhân của các em mà còn làm tăng các chu kỳ nghèo đói và bất lợi của mọi thế hệ và cả quốc gia.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội nhanh chóng của Việt Nam, trẻ em nói chung và trẻ em người dân tộc thiểu số, miền núi nói riêng không được tiếp cận nền giáo dục có chất lượng, cũng đồng nghĩa với việc đánh mất một nguồn tăng trưởng tiềm năng của đất nước. Không những thế, tình trạng này còn dẫn tới nhiều hệ lụy khác như việc khó hòa nhập giữa các vùng miền, dân tộc, dẫn đến cơ hội để thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng sẽ hạn chế hơn.
Thực tế, mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn có khoảng cách đáng kể với các dân tộc đa số khác; tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ vẫn còn khá lớn; tỷ lệ người có trình độ học vấn cao rất thấp… ặc biệt trong kỷ nguyên số hiện nay, các việc làm truyền thống dần mất đi nên cơ hội học tập, làm việc ngày càng nhiều thách thức đối với trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi. Do đó, thúc đẩy hơn nữa quyền tiếp cận giáo dục cho nhóm đối tượng này là nhiệm vụ hết sức quan trọng, không chỉ giúp các em được học tập, làm việc bình đẳng mà còn góp phần giảm khoảng cách giàu-nghèo, mang lại cơ hội hòa nhập giữa các vùng miền.
ể giải quyết tình trạng nêu trên cần có các giải pháp đồng bộ, cũng như sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bộ, ban, ngành và hệ thống chính quyền tại địa phương giúp thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi đạt được hiệu quả như mong muốn. Song song với việc duy trì thực hiện đầy đủ những chính sách, pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền học tập, cần tiến hành rà soát làm cơ sở bổ sung những điều khoản cho phù hợp với tình hình thực tiễn; thực hiện cơ chế giám sát, bảo đảm các chính sách, pháp luật được thực thi đúng, đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, cần tăng cường nguồn vốn đầu tư ngân sách nhà nước đáp ứng các yêu cầu về xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp, điểm trường, trường nội trú nhằm cung cấp môi trường học tập an toàn và hiệu quả cho các em; tạo điều kiện cho trẻ em dân tộc thiểu số tiếp cận công nghệ và phương pháp giáo dục hiện đại; nâng cao năng lực giáo viên; rút ngắn rào cản ngôn ngữ.
Xây dựng chương trình giáo dục mầm non mới, dựa trên quan điểm gì?
Theo đánh giá của Bộ trưởng Bộ GDĐT, trước yêu cầu cao hơn của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, chương trình giáo dục mầm non được triển khai trong thời gian qua tuy đã tốt nhưng chưa đủ.
Chương trình hiện hành tốt nhưng chưa đủ
Chương trình Giáo dục Mầm non được Bộ trưởng Bộ GDĐT ký quyết định ban hành kèm theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/7/2009.
Sau hơn 10 năm tổ chức thực hiện, với sự chỉ đạo sâu sát, hiệu quả của Bộ GDĐT, sự triển khai kịp thời, đồng bộ với nhiều biện pháp linh hoạt, sáng tạo của các địa phương, cơ sở giáo dục mầm non, đến nay Chương trình giáo dục mầm non đã được thực hiện ở 15.461 cơ sở (đạt 100%), trong đó có 5.255.889 trẻ (99%) học 2 buổi/ngày theo Chương trình giáo dục mầm non.
Bộ GDĐT đánh giá, chương trình giáo dục mầm non đã thể hiện tính ưu việt, khoa học, phù hợp với thực tiễn và góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
Bộ trưởng Bộ GDĐT chủ trì hội thảo "Kinh nghiệm quốc tế và quốc gia xây dựng chương trình giáo dục mầm non" do Bộ GDĐT tổ chức chiều 17/10, tại Hà Nội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Bộ GDĐT, chương trình vẫn còn một số hạn chế, đặc biệt là chất lượng đội ngũ và công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ và tài liệu nguồn cho giáo viên.
Một số yếu tố vẫn cần được quan tâm để đảm bảo điều kiện thực hiện chương trình giáo dục mầm non, như: chế độ chính sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện chương trình; số trẻ/lớp; không gian, diện tích lớp và đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho trẻ.
Lương giáo viên mầm non còn thấp chưa tương xứng với công việc; chưa bố trí đủ giáo viên mầm non, nhân viên theo định mức nên rất khó khăn trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non; cần nhân viên y tế, dinh dưỡng chuyên trách không phải là hợp đồng vụ việc để đảm bảo chất lượng việc chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non theo quy định; còn khoảng cách vùng miền trong tiếp cận chương trình giáo dục mầm non và các điều kiện thực hiện chương trình...
Phát biểu tại hội thảo "Kinh nghiệm quốc tế và quốc gia xây dựng chương trình giáo dục mầm non" do Bộ GDĐT tổ chức chiều 17/10, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết, hơn 10 năm qua, quá trình triển khai chương trình giáo dục mầm non đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo tiền đề cho các bậc học tiếp theo, trong đó có giáo dục phổ thông, đạt được những kết quả tốt. Trong bảng xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020.
Tuy nhiên, trước yêu cầu cao hơn, xa hơn của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, chương trình giáo dục mầm non đã tốt nhưng là chưa đủ, cần phải làm tốt hơn nữa. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam rất nhấn mạnh phương diện phát triển con người một cách toàn diện.
Chương trình mới tiếp cận với các phương pháp giáo dục tiên tiến
Hình thành nhân cách, thể chất, giai đoạn giáo dục mầm non có thể nói là quan trọng bậc nhất, thậm chí mang tính quyết định. Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết, Bộ GDĐT nhận thức được tầm quan trọng, cũng như thách thức trong xây dựng chương trình giáo dục mầm non mới.
Về quan điểm xây dựng chương trình giáo dục mầm non mới, PGS.TS Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non, cho rằng, chương trình mới cần kế thừa và phát triển trên quan điểm chương trình hiện hành để cơ sở dễ thực hiện và tiếp tục phát triển.
Học sính Trường Mầm non Việt Triều (Hà Nội).
Chương trình cần thể hiện rõ nét hơn quan điểm tiếp cận phát triển phẩm chất năng lực trẻ em mầm non phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, hướng đến hình thành những giá trị cốt lõi của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chương trình cần tiếp cận với các phương pháp giáo dục tiên tiến, hội nhập với giáo dục quốc tế. Nên chú ý nhiều hơn đến các vấn đề giáo dục trẻ trở thành công dân toàn cầu trong hoàn cảnh cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4.
Trước đó, từ năm 2020, Bộ GDĐT đã tổ chức khảo sát, đánh giá 10 năm thực hiện Chương trình giáo dục mầm non.
Cuối năm 2021, Bộ GDĐT đã tổ chức hội thảo với chuyên gia quốc tế và chuyên gia trong nước về việc đề xuất quan điểm xây dựng chương trình giáo dục mầm non và hội thảo với cán bộ quản lý, giáo viên mầm non đại diện 63 tỉnh/thành phố để đánh giá việc thực hiện Chương trình giáo dục mầm non.
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đã có đánh giá, phân tích ngành đối với giáo dục mầm non, qua đó nhìn nhận, đánh giá chương trình giáo dục mầm non hiện hành và rút kinh nghiệm, đề xuất quan điểm xây dựng Chương trình giáo dục mầm non mới.
Giáo dục học sinh yêu thương, sẻ chia qua tiểu phẩm, câu chuyện Bằng những tiểu phẩm, câu chuyện ngoài thực tế các trường mong muốn giáo dục học sinh biết yêu thương, sẻ chia với mọi người. Bên cạnh đó, tuân thủ các quy định về giao thông, pháp luật và nội quy trường học. Trường Tiểu học Bế Văn Đàn tổ chức hoạt động ngoại khoá, giao lưu giữa các trường khi dịch Covid-19...