Thị trường hàng hóa toàn cầu xáo trộn vì biến động địa chính trị
Xung đột quân sự ở Ukraine đã tác động mạnh lên thị trường hàng hóa, bởi không thể tách riêng rạn nứt, đổ vỡ địa chính trị với những nguồn nhiên liệu thô chủ chốt.
Châu Âu phụ thuộc nhiều vào nguồn cung khí đốt từ Nga. Ảnh: Getty Images
Cuộc chiến tại Ukraine đã tạo ra tác động lan tỏa lên thị trường hàng hóa. Nó cho thấy một thực tế không thể phủ nhận được: Những rạn nứt địa chính trị ngay lập tức tác động mạnh đến các thị trường chuyên về nguyên nhiên liệu thô chủ chốt. Xung đột cùng với các lệnh cấm vận trả đũa giữa Nga với phương Tây đang gây ra những đứt gãy trên nhiều chủng loại mặt hàng, nổi bật là lúa mỳ, dầu mỏ, khí đốt và nhiều sản phẩm liên quan đến hai mặt hàng năng lượng này như phân bón.
Giới giao dịch hàng hóa và quản lý mua bán nguyên nhiên liệu thô đang ngày một lo ngại trước viễn cảnh hàng hóa có nguy cơ bị biến thành một thứ vũ khí trong chính sách đối ngoại của nhiều nước, đặc biệt là khi xuất hiện một kịch bản về Chiến tranh Lạnh mới chia rẽ Nga, có thể là cả Trung Quốc, với phương Tây.
Khi khí đốt, năng lượng là vũ khí: Những cú sốc trên thị trường xuất phát từ việc một số nước nắm quyền khống chế sản lượng, trữ lượng mặt hàng nào đó không phải là mới. Thế giới đã phải đối mặt với hai cú sốc về dầu thô trong những năm 1973 và 1979, khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) áp lệnh cấm, khiến giá dầu tăng vọt, gây ra tình trạng lạm phát kèm suy thoái tại những quốc gia phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu.
Sau thời điểm đó, toàn cầu hóa thương mại diễn ra nhanh và mạnh hơn, các thị trường được kết nối, liên thông với nhau rộng hơn. Nhưng trong khi tìm cách cắt giảm chi phí trong chuỗi cung ứng, chính phủ nhiều nước và các doanh nghiệp vẫn không thể thoát được tình cảnh phụ thuộc vào một số nhà cung ứng nhất định, từ mặt hàng ngũ cốc, cho tới chip máy tính, để rồi rơi vào tình cảnh dễ bị tổn thương trước đứt gãy bất chợt trong chuỗi cung.
Rõ nhất trong trường hợp của Nga là khí đốt. Nga chiếm 17% sản lượng khí đốt toàn cầu. Xung đột tại Ukraine cho thấy một thực tế khí đốt là một công cụ để Moskva gây ảnh hưởng và kiềm chế leo thang trừng phạt, nhất là từ châu Âu. 40% tiêu thụ khí đốt của châu lục này do Nga cung cấp. Nhưng tại thời điểm cuối quý 4/2021, tỉ lệ này rút xuống còn khoảng 20-25%, nguyên nhân là do tập đoàn Gazprom (Nga) áp dụng chiến lược mới, chỉ cung ứng dựa trên các hợp đồng dài hạn cam kết, không bổ sung khí đốt trên thị trường giao ngay.
Về dầu mỏ, Nga là nước khai thác và xuất khẩu dầu thô hàng đầu thế giới, mỗi ngày chuyển khoảng 2,5 triệu thùng dầu sang châu Âu và 1/3 sản lượng này là qua tuyến đường ống Druzhba chạy qua lãnh thổ Belarus. Nói cách khác, Nga đáp ứng hơn 25% nhu cầu dầu thô của cả Liên minh châu Âu (EU). Bất kỳ đứt gãy nguồn cung nào từ Nga cũng sẽ tác động mạnh tới giá dầu. Đây là nguyên nhân khiến thị trường dầu mỏ vừa qua luôn biến động nhanh và mạnh, gắn liền với diễn biến tại Ukraine, các lệnh trừng phạt của Mỹ, EU nhằm vào Nga.
Video đang HOT
Lộ diện nguy cơ khủng hoảng lương thực: Một trong những hệ quả tệ nhất mà xung đột tại Ukraine có thể gây ra chính là đà tăng giá của các mặt hàng ngũ cốc, lương thực. Giao tranh nổ ra tại thời điểm giá lương thực đã đứng ở mức cao, do sản xuất nông nghiệp trên thế giới mất mùa. Giá lúa mỳ kỳ hạn giao sau trên sàn giao dịch hàng nông sản Chicago (CBOT) trong phiên giao dịch ngày 2/3 đã vọt lên mức 10,23 USD/bushel, cao nhất trong vòng 14 năm trở lại đây do lo ngại nguồn cung bị đứt gãy, khi Nga và Ukraine chiếm khoảng 30% lượng xuất khẩu mặt hàng này.
Xung đột Nga-Ukraine đe dọa nguồn cung lúa mỳ cho khu vực Trung Đông-Bắc Phi. Ảnh: AFP
Theo Caitlin Welsh, giám đốc chương trình an ninh lương thực tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Mỹ, Ukraine hiện vẫn còn một lượng lớn ngũ cốc trong kho, nhưng việc không thể xuất khẩu tại thời điểm hiện nay đã gây ra những hệ quả tiêu cực đối với những nước nhập khẩu sản phẩm này từ Ukraine.
Theo đánh giá của CSIS, một nửa trong 14 quốc gia phụ thuộc vào nguồn cung lúa mỳ của Ukraine đã phải đối diện với nguy cơ mất an ninh lương thực nghiêm trọng, nổi bật là trường hợp của Li-ban và Yemen. Nhưng tác động không chỉ dừng lại ở đó. Cuộc chiến Nga-Ukraine đã đẩy giá nhiên liệu lên mức cao kỉ lục trong nhiều năm, gián tiếp tạo ra bất ổn về an ninh lương thực.
Giá phân bón trong năm ngoái đã tăng chóng mặt sau khi EU áp lệnh cấm vận nhằm vào Belarus, nước đứng đầu thế giới về sản lượng khai thác hợp chất kali (potash) – nguyên liệu chủ chốt để sản xuất ra phân bón. Nga và Trung Quốc – hai nước xuất khẩu phân bón lớn trên thế giới, cũng áp lệnh cấm xuất khẩu để bảo đảm nguồn cung trong nước. Giá phân bón tăng đồng nghĩa với sản lượng nông nghiệp suy yếu. Thiếu hụt phân bón đã ảnh hưởng lớn đến nhiều khu vực nông thôn tại Ấn Độ, nơi 40% nhu cầu phân bón phụ thuộc vào bên ngoài.
Thị trường kim loại biến động lớn: Ngoài dầu mỏ, khí đốt và ngũ cốc, Nga còn chiếm 10% sản lượng vàng, 6% sản lượng alumin, 4% sản lượng cobalt và 3,5% sản lượng của toàn thế giới. Tập đoàn Nornickel (Nga) là nhà khai mỏ lớn nhất thế giới về nickel (7% sản lượng toàn cầu), đồng thời cũng là nhà khai mỏ lớn nhất thế giới về palladi và thuộc nhóm hàng đầu thế giới về platin.
Về hợp chất Neon, Nga và Ukraine chiếm 40-50% tổng xuất khối lượng xuất khẩu Neon trên toàn cầu. Đây là một dạng hợp chất dùng trong ngành sản xuất thép, nguyên liệu thiết yếu đối với chế tạo chip. Trong biến cố Crimea sáp nhập vào Nga năm 2014, mặt hàng này đã tăng giá tới 600% gần như chỉ sau một đêm, gây ra đứt gãy trong ngành bán dẫn.
Tương tự như vậy là mặt hàng palladi. Khoảng 40% sản lượng palladi là do Nga sản xuất. Nguyên tố hóa học này được dùng nhiều trong ngành chế tao ô tô, dùng để thải loại khí độc hại trong khói.
Tựu chung lại, giới phân tích nhận định thế giới đang phải đối mặt với căng thẳng địa chính trị kéo dài, khởi nguồn từ cuộc chiến tại Ukraine, đi kèm đó là nguy cơ cao về biến động giá cả hàng hóa. Nga và Ukraine có ảnh hưởng lớn trên thị trường hàng hóa toàn cầu và xung đột lần này gây ra những ảnh hưởng sâu rộng, mà giá tăng cao là một điểm đáng quan ngại nhất.
Giải pháp cho an ninh lương thực trong đại dịch COVID-19
Lệnh giãn cách xã hội kéo dài vì đại dịch COVID-19 đã khiến nhiều người dân vốn phụ thuộc vào khách du lịch tại thành phố Chiang Mai, miền Bắc Thái Lan, lâm vào cảnh khó khăn do bị mất việc làm, dẫn đến thu nhập giảm sút, không đủ tiền mua lương thực, thực phẩm hằng ngày.
Nông trại Đô thị Chiang Mai.Ảnh: iied.org
Thấu hiểu được những khó khăn mà người dân Chiang Mai phải trải qua, kiến trúc sư Supawut Boonmahathanakorn hoạt động trong lĩnh vực giải pháp nhà ở cho những người vô gia cư tại thành phố này đã "biến" bãi rác tồn tại khoảng 20 năm qua và đang chứa khoảng 5.700 tấn rác thải thành một nông trại giữa lòng đô thị có thể giúp đỡ những người nghèo vượt qua cuộc khủng hoảng lương thực, thực phẩm do dịch bệnh gây ra.
Được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, kiến trúc sư Supawut đã cho san lấp và cải tạo đất, bổ sung một lớp đất màu mỡ ở bề mặt thay cho lớp đất bạc màu, đồng thời kêu gọi sự hỗ trợ cây giống cũng như phân bón cho trang trại rộng 4.800m2 này thông qua mạng xã hội. Nông trại đô thị Chiang Mai bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 6/2020 và hiện cung cấp các loại rau xanh như xà lách, rau cải ăn lá (bó xôi, cải xanh, cải ngọt, cải chíp), rau gia vị, ngô, cà chua, gà và trứng... cho hầu hết người dân gần đó.
Chuyên gia Supawut nhận định những gia đình nghèo thường dành hơn một nửa số tiền kiếm được để mua lương thực, thực phẩm, nên khi thu nhập cạn kiệt vì tác động của dịch bệnh, họ phải vật lộn để kiếm sống và nuôi gia đình, do đó mô hình trang trại này là "phao cứu sinh" cho họ. Ammi, một phụ nữ vô gia cư thuộc tộc người bản địa Akha sống tại trang trại từ tháng 7/2020 cũng thừa nhận rằng ngô, các loại dưa và bắp cải mà cô trồng đã và đang nuôi sống gia đình cô, đồng thời thời mang lại một khoản thu nhập nhỏ.
Các chuyên gia đô thị Thái Lan cũng nhận định mô hình trang trại đô thị ở Chiang Mai đã giúp thúc đẩy an ninh lương thực và sinh kế cho các gia đình nghèo trong bối cảnh khủng hoảng dịch bệnh COVID-19, và có thể áp dụng cho những không gian không hoặc chưa sử dụng đến ở những thành phố khác. Cuối năm ngoái, Đại học Thammasat, một trong những trường lâu đời nhất tại Thái Lan, cũng đã khai trương nông trại trên mái nhà lớn nhất châu Á tại Bangkok với diện tích 7.000 m2.
Không chỉ xuất hiện ở Thái Lan, dự án vườn rau Manguinhos, một sáng kiến nông nghiệp đô thị và là trang trại cộng đồng lớn nhất Mỹ Latinh, đang giúp ít nhất 800 hộ gia đình tại một trong những khu ổ chuột nghèo nhất ở thành phố Rio de Janeiro của Brazil sống sót trong đại dịch COVID-19. Trang trại đô thị rộng bằng 4 sân vận động được cải tạo từ một khu đất là những đống đổ nát này còn tạo việc làm cho hơn 20 lao động địa phương vào thời điểm mà quốc gia Nam Mỹ đang chật vật cứu nền kinh tế chịu tác động nặng nề bởi dịch bệnh.
Ezequiel Dias, một nông dân 44 tuổi làm việc tại trang trại từ khi dự án khởi động vào năm 2013, chia sẻ dự án vườn rau Manguinhos đã giúp thay đổi cuộc sống của ông sau 5 năm rơi vào tình trạng thất nghiệp mà vẫn gánh trên vai trách nhiệm phải nuôi sống gia đình. Ông cho biết không chỉ ông, trang trại này còn mang đến những "hạt giống hy vọng" cho hàng nghìn cư dân thuộc cộng đồng Manguinhos vốn coi "cuộc sống hằng ngày luôn là một cuộc chiến" với việc tiếp cận hệ thống vệ sinh, việc làm và giáo dục.
Khi dịch bệnh COVID-19 lây lan ra toàn cầu, các quốc gia trên thế giới đã áp đặt những biện pháp hạn chế nghiêm ngặt để ngăn chặn dịch bệnh. Các thành phố, các bang hay đường biên giới quốc gia bị phong tỏa, gây ảnh hưởng đến hoạt động đi lại, vận tải, dẫn đến hệ lụy tất yếu là chỗ thừa, chỗ thiếu lực lượng lao động, làm đứt gãy nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm gây ra mối đe dọa nghiêm trọng trong việc tiếp cận thực phẩm tươi sống. Câu hỏi đặt ra là những khu vực bị phong tỏa như vậy lấy thức ăn từ đâu khi mà nhu cầu tại địa phương tăng cao. Có lẽ những câu chuyện thành công về trang trại đô thị kể trên là đáp án thích hợp cho vấn đề bảo đảm an ninh lương thực trong bối cảnh đại dịch. Kiến trúc sư Supawut cho rằng các trang trại đô thị không thể nuôi sống toàn bộ thành phố, nhưng chúng có thể cải thiện dinh dưỡng và tạo khả năng tự cung tự cấp cao hơn, đặc biệt là ở những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khi xảy ra đại dịch COVID-19 vốn khiến chuỗi cung ứng bị gián đoạn nghiêm trọng.
Báo cáo thường niên về an ninh lương thực và dinh dưỡng mà Liên hợp quốc (LHQ) công bố hồi tháng 7 cho thấy đại dịch COVID-19 đã phơi bày những điểm yếu trong hệ thống lương thực thế giới, đe dọa tới đời sống và kế sinh nhai của người dân mà không khu vực nào trên thế giới thoát khỏi tình trạng này. Số người thiếu ăn trên thế giới trong năm 2020 tăng 18% so với năm trước đó, lên khoảng 768 triệu người, mức tăng mạnh nhất trong hàng thập kỷ qua. Trong đó, 418 triệu người ở châu Á, 282 triệu người ở châu Phi, 60 triệu người ở Mỹ Latinh và vùng Caribe. Tại châu Phi, 21% người dân bị thiếu ăn, cao hơn gấp đôi so với bất kỳ khu vực nào khác. Trong khi đó, số người không thể tiếp cận đầy đủ lương thực trong năm ngoái đã tăng 320 triệu người lên 2,37 tỷ người. Mức tăng trong năm 2020 này tương đương với mức tăng của 5 năm trước cộng lại.
Trước thực trạng trên, việc phát triển nông nghiệp đô thị được xem là một công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy tính bền vững và giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực. Theo nhận định của Giám đốc điều hành ComCrop - trang trại đô thị thương mại ở Singapore, Allan Lim, đại dịch là một lời nhắc nhở rằng sự gián đoạn nguồn cung cấp lương thực thực phẩm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do đó các sản phẩm từ nông trại đô thị có thể đóng vai trò là "bộ phận giảm xóc" trước những cú sốc như vậy. Nghiên cứu của Đại học bang Arizona (Mỹ) cho thấy các mô hình trang trại đô thị có khả năng sản xuất 180 triệu tấn lương thực mỗi năm, tương đương khoảng 10% sản lượng các loại đậu và rau toàn cầu.
Bên cạnh việc bảo đảm nguồn cung thực phẩm, việc xây dựng nông trại trên mái nhà còn cung cấp khả năng làm mát tự nhiên cho các tòa nhà và đường phố, làm xanh, sạch đô thị, giảm ô nhiễm môi trường, trong khi các trang trại được cải tạo từ không gian mặt đất không sử dụng đến góp phần tăng độ phủ thực vật, hạn chế tăng nhiệt độ và giảm nguy cơ lũ lụt. Trong khi đô thị hóa được coi là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học, thì việc trồng các loại cây nông nghiệp bản địa giúp duy trì và làm phong phú các loại côn trùng, bảo vệ hệ sinh thái, và có thể giúp đảo ngược tình trạng biến đổi khí hậu. Thậm chí, nghiên cứu do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố còn cho thấy ngay cả việc mỗi gia đình tự trồng cây trên mái nhà hoặc ban công nhà mình còn giúp các thành viên được hòa mình vào thiên nhiên, cải thiện sức khỏe tinh thần và thể chất, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 khiến người dân gặp những vấn đề về tâm lý khi phải ở nhà nhiều hơn.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển các mô hình trang trại đô thị vẫn ở cấp độ cá nhân, chưa mang tính hệ thống, nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn. Giới chuyên gia kêu gọi các chính phủ, các nhà hoạch định chính sách cần trở thành "đối tác dinh dưỡng", tận dụng khoảng trống, chuyển đổi những không gian cằn cỗi thành những mảnh đất xanh tươi và hiệu quả, góp phần đảm bảo an ninh lương thực.
LHQ cảnh báo nếu không có các giải pháp kịp thời, với xu hướng hiện nay, thế giới sẽ bỏ lỡ mục tiêu phát triển bền vững của LHQ là không còn người thiếu ăn vào năm 2030. Dự báo, hơn 2/3 dân số thế giới sẽ sống ở các thành phố vào năm 2050, LHQ cho rằng nông nghiệp đô thị có thể là yếu tố quan trọng trong tương lai. Theo như nhận định của Tiến sĩ Rachel Carey, giảng viên về hệ thống lương thực, thực phẩm tại Đại học Melbourne của Australia, các thành phố nên tăng cường khả năng canh tác đô thị như một "chính sách bảo hiểm" trong trường hợp xảy ra thiên tai hoặc đại dịch hay bất kỳ tình huống khẩn cấp nào trong tương lai có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng.
COVID-19 khiến khủng hoảng lương thực toàn cầu trầm trọng hơn COVID-19 nổ ra đúng thời điểm khủng hoảng lương thực và suy dinh dưỡng có chiều hướng gia tăng. COVID-19 gây ra một số đứt gãy trong hệ thống sản xuất, phân phối lương thực. Ảnh: ModernDiplomacy Theo dự báo mới nhất của Liên hợp quốc, suy giảm kinh tế do tác động của đại dịch khiến thế giới có thêm 132 triệu...