Theo học ngành Y tại Đức – cần kiến thức vững về ngôn ngữ
Đức là một trong những điểm đến du học không sử dụng tiếng Anh phổ biến nhất thế giới, cũng là một địa điểm lý tưởng để theo học bằng cấp y khoa với giá phải chăng.
Để theo học y khoa tại Đức, bạn cần có kiến thức tiếng Đức rất tốt. Ảnh: Topuniversities
Cơ cấu bằng cấp y tế
Các văn bằng đào tạo về y học cho con người mất ít nhất 6 năm 3 tháng để hoàn thành và kết thúc với kỳ kiểm tra của nhà nước (rztliche Prfung). Kỳ thi này (nếu bạn vượt qua) sẽ nhận được Giấy phép Hành nghề Y khoa chính thức.
Bạn sẽ hoàn thành nghiên cứu y khoa của mình trong các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1 (tiền lâm sàng): Dài bốn học kỳ (hai năm) và sẽ giới thiệu cho bạn những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên và y học. Nó kết thúc với cuộc kiểm tra giấy phép y tế đầu tiên.
Giai đoạn 2 (lâm sàng): Đây là giai đoạn chính của nghiên cứu (sáu học kỳ – ba năm) bao gồm các môn học chính, được giảng dạy trong các bài giảng, khóa học thực hành, thực tập và hội thảo.
Giai đoạn 3 (năm thực hành): Đây là khóa đào tạo lâm sàng kéo dài một năm, trong đó bạn sẽ được giới thiệu về các khía cạnh thực tế của phẫu thuật, nội khoa và một môn học tự chọn. Giai đoạn này cung cấp kinh nghiệm trong công việc để bạn chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai của mình.
Giai đoạn 4 (kiểm tra trạng thái): Bước cuối cùng để hoàn thành bằng cấp y tế của bạn ở Đức là vượt qua Kỳ thi cấp nhà nước, một kỳ thi được tiêu chuẩn hóa trên toàn quốc. Sau khi thi và vượt qua bài kiểm tra, bạn có thể đăng ký giấy phép y tế và bắt đầu làm việc với tư cách là một bác sĩ được chứng nhận.
Video đang HOT
Sau đó, bạn có thể quyết định tiếp tục học để trở thành một chuyên gia y tế, tùy thuộc vào chuyên ngành, có thể mất thêm năm đến sáu năm nữa. Chương trình đào tạo nâng cao kết thúc với một cuộc kiểm tra chuyên khoa.
Yêu cầu để học y khoa ở Đức
Bạn cần có kiến thức tiếng Đức rất tốt, bạn sẽ cần phải chứng minh bằng điểm số cao trong một bài kiểm tra như TestDaF hoặc DSH. Nếu kỹ năng ngôn ngữ của bạn chưa đạt, đừng lo lắng, bạn có thể đăng ký một khóa học tiếng Đức trước khi học để giúp nâng cao kỹ năng ngôn ngữ của bạn đến mức cần thiết cho việc học y khoa ở Đức. Bạn cũng sẽ cần:
Bằng cấp đại học/giấy chứng nhận tốt nghiệp trung học. Nếu bạn đến từ Liên minh châu Âu, chứng chỉ rời đi của bạn thường được chấp nhận tương đương với chứng chỉ tiếng Đức. Tuy nhiên, sinh viên không thuộc EU sẽ cần phải kiểm tra xem bằng cấp của họ có đủ điều kiện hay không. Nếu không, bạn có thể cần phải tham gia Studienkolleg (khóa học dự bị một năm) và tham gia Feststellungsprfungexam.
Kiến thức tiếng Anh vững chắc, để hiểu tài liệu chuyên ngành. Kiến thức về tiếng Latinh cũng hữu ích nhưng không cần thiết. Kiến thức phổ thông sâu rộng về sinh học, hóa học và vật lý cũng rất quan trọng. Khả năng đối phó tốt với căng thẳng là điều cần thiết vì các chương trình y tế thường tốn nhiều thời gian và chuyên sâu, với các lớp học bắt buộc lên đến 25 – 30 giờ một tuần.
Sinh viên không thuộc EU có thể yêu cầu thị thực sinh viên và giấy phép cư trú. Một số trường đại học cũng có thể yêu cầu sinh viên không thuộc EU cung cấp kết quả cho Kỳ thi TestAS, trong khi Bài kiểm tra Nghiên cứu Y khoa (TMS) là tự nguyện nhưng có thể giúp bạn có lợi thế hơn các ứng viên khác bằng cách chứng minh tiềm năng học tập của bạn.
Bạn nên liên hệ trước với Văn phòng Quốc tế của trường đại học mà bạn đã chọn (nếu có thể, một năm trước khi bạn dự định bắt đầu khóa học của mình) để có nhiều thời gian tìm hiểu thông tin cụ thể về các yêu cầu, thủ tục và thời hạn nhập học.
Chi phí học y khoa
Nếu bạn học y khoa ở Đức tại một trường đại học công lập ở bất kỳ bang nào ngoại trừ Baden – Wrttemberg, bạn sẽ chỉ phải trả một khoản phí học kỳ để trang trải chi phí quản lý và đăng ký – mức này thường không quá 250 euro mỗi học kỳ (tương đương 290 USD).
Tuy nhiên, học phí dành cho sinh viên không thuộc EU hiện đã được áp dụng trở lại ở bang Baden-Wrttemberg, có nghĩa là sinh viên không thuộc EU hiện cần phải trả khoản phí 3.000 euro (tương đương 3.500 USD) mỗi năm tại các trường đại học công lập ở bang này.
Các trường đại học tư thục sẽ tính phí cao hơn đáng kể. Bạn cũng sẽ cần khoảng 10.000 euro (tương đương 11.800 USD) một năm để trang trải chi phí sinh hoạt của mình, mặc dù chi phí sẽ khác nhau tùy thuộc vào nơi bạn học.
Hành nghề bác sĩ
Khi bạn đã vượt qua Bài kiểm tra cấp tiểu bang, bạn sẽ được cấp giấy phép y tế của mình và có thể bắt đầu làm việc với tư cách là bác sĩ. Giấy phép y tế là vĩnh viễn và có giá trị ở mọi nơi trên toàn nước Đức.
Nếu bạn đến từ Liên minh châu Âu, bạn có thể làm việc tại Đức mà không cần giấy phép lao động và sẽ có cùng quyền tiếp cận thị trường lao động. Nếu bạn đến từ bên ngoài Liên minh châu Âu, bạn có thể đăng ký gia hạn giấy phép cư trú của mình lên đến 18 tháng để tìm công việc liên quan đến việc học của bạn.
Hiện tại, thị trường lao động Đức có nhu cầu lớn về bác sĩ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Mức lương khởi điểm trung bình rất tốt, khoảng 49.000 euro (tương đương 56.800 USD) một năm, thường cao hơn mức lương khởi điểm cho sinh viên tốt nghiệp bất kỳ ngành nào khác.
Điều đầu tiên cần lưu ý về các chương trình y tế ở Đức là các chương trình đào tạo không được phân chia giữa cử nhân và thạc sĩ – một chương trình đào tạo y tế mất 6 năm để hoàn thành và được thực hiện hoàn toàn bằng tiếng Đức, vì vậy bạn sẽ cần có kiến thức vững chắc về ngôn ngữ này. Tuy nhiên, các chương trình thay thế trong lĩnh vực y tế vẫn tồn tại dưới dạng cử nhân và thạc sĩ, bao gồm một số chương trình dạy bằng tiếng Anh.
Thêm 2 ngoại ngữ trong nhà trường: Có cần thiết? Kỳ cuối: Chớ làm cảm tính
Với việc Bộ GDĐT quyết định đưa hai ngôn ngữ Hàn, Đức vào chương trình bắt buộc giáo dục phổ thông hệ 10 năm (ngoại ngữ 1), dư luận không khỏi băn khoăn về tính thiết thực, sự cần thiết của hai ngoại ngữ này.
Nếu cơ quan quản lý không thể chứng minh được sự hữu ích khi học hai ngôn ngữ này thì khó mà thuyết phục được xã hội.
Ảnh minh họa.
Tất nhiên, nói cho đến cùng thì cái sự học chẳng bao giờ là thừa, là đủ cả. Học nữa, học mãi, thậm chí càng học càng thấy dốt nên cần phải trau dồi càng nhiều kiến thức càng tốt. Song, điều đó không có nghĩa là cơ quan quản lý giáo dục, mà ở đây là Bộ GDĐT có thể dễ dàng đưa ra quyết định khi chưa đủ cứ liệu khoa học, trải nghiệm thực tiễn.
Dù đã cho dạy thử nghiệm hai loại ngôn ngữ Hàn và Đức theo hình thức lựa chọn (ngoại ngữ 2), nhưng tới thời điểm này Bộ GDĐT chưa hề công bố kết quả sơ kết, tổng kết về tính thiết thực, sự hữu ích của hai loại ngôn ngữ này, để có căn cứ quyết định đưa chúng trở thành ngoại ngữ 1 bắt buộc. Vậy quyết định trên dựa vào cơ sở nào?
Để lý giải cho việc đưa hai ngôn ngữ Hàn và Đức trở thành ngoại ngữ 1, Bộ GDĐT khẳng định qua quá trình dạy và học thí điểm, các học sinh đón nhận hết sức hào hứng, tham gia học nhiều, rất khả quan. Đó chỉ là lời giải thích phiến diện, chứ chưa hề có con số thống kê cụ thể từ một cuộc khảo sát nghiêm túc do tổ chức hay đơn vị nào thực hiện.
Hiện, trong các môn ngoại ngữ 1, chỉ có tiếng Anh là phổ biến, được triển khai dạy và học tại hầu hết các trường phổ thông. Còn lại những ngoại ngữ khác như Pháp, Nga, Nhật... thì cũng chưa thể phổ biến (nếu không muốn nói là rất ít) dạy trong các trường phổ thông. Vậy thì cớ sao lại phải "cố gắng" đưa thêm hai ngôn ngữ Hàn, Đức vào làm gì?
Dù Bộ GDĐT có đưa tiếng Hàn, tiếng Đức vào thành ngoại ngữ 1, nhưng nếu các trường phổ thông trên toàn quốc không muốn, hoặc không thể triển khai dạy và học thì quyết định đó cũng chỉ nằm ở trên giấy. Biết là rất khó triển khai trên diện rộng toàn quốc (bởi nhiều lý do) còn cố đưa ra một quyết định "cứng" như vậy để làm gì?
Nói là hầu hết các trường phổ thông trên toàn quốc (trừ hai địa phương lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) khó có thể triển khai dạy và học hai ngôn ngữ Hàn và Đức là hoàn toàn có cơ sở. Bởi lẽ, để triển khai dạy và học những ngoại ngữ này, điều kiện cần và đủ là phải có giáo viên tiếng Hàn, tiếng Đức đạt chuẩn, cùng với đó là cơ sở vật chất đi kèm.
Cứ cho là việc tuyển giáo viên các ngoại ngữ trên đơn giản, dễ dàng, các trường cũng sẵn sàng nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất dạy và học. Cứ cho là nhiều học sinh sẽ đăng ký học hai ngoại ngữ này, vì văn hóa Hàn Quốc cũng đang hấp dẫn giới trẻ, khiến giới trẻ bị choáng ngợp. Song, ngay cả như vậy thì Bộ GDĐT cũng phải tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả khi triển khai dạy và học hai ngoại ngữ này.
Nếu không được cân nhắc kỹ lưỡng, xem xét thấu đáo, chỉ đưa ra quyết định theo cảm tính, rất có thể sẽ là sai lầm dẫn đến lãng phí nguồn lực. Một chuyên gia giáo dục đã đưa ra cảnh báo rằng, nhiều học sinh hiện đang "mê" các sao Hàn Quốc nên sẽ rất hào hứng đăng ký học ngoại ngữ này. Nhưng khi lớn lên các em không thể sử dụng ngôn ngữ này để làm việc, trong khi lại không có ngôn ngữ phổ thông là tiếng Anh thì sẽ rất khổ.
Đó là chưa kể đến việc thiếu đồng bộ giữa các cấp học, giữa các trường. Chẳng hạn như một học sinh đang học tiếng Hàn hoặc tiếng Đức, nhưng vì lý do bất khả kháng nào đó phải chuyển sang trường mới mà ở đó không có loại ngoại ngữ trên, các em sẽ phải học lại từ đầu ngoại ngữ khác sẽ rất vất vả, không thể theo kịp các bạn cùng lớp, cùng trường.
Hay việc ở cấp THCS các em học tiếng Hàn hay tiếng Đức, nhưng khi lên cấp THPT lại không dạy hai ngoại ngữ này thì các em phải làm sao? Chắc chắn là phải bắt nhịp ngay với ngoại ngữ mới đang được dạy tại trường THPT. Đó không chỉ là sự lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc, mà còn khiến các em học sinh vô cùng khổ sở khi phải làm quen với môn học mới.
Theo cách giải thích của Vụ trường Vụ Giáo dục trung học (Bộ GDĐT) Nguyễn Xuân Thành, gọi là ngoại ngữ 1 bắt buộc, nhưng học sinh có quyền lựa chọn có học ngoại ngữ đó hay học ngoại ngữ khác. Nghe đã thấy trúc trắc, và "sai sai" rồi. Vậy thì cớ sao Bộ GDĐT không giữ nguyên đó là các ngoại ngữ 2, cớ sao cứ nhất thiết phải "nâng cấp" chúng trở thành ngoại ngữ 1?
Dư luận xã hội cho rằng, với vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, liên quan đến nguồn lực con người có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nước, Bộ GDĐT cần có sự thấu đáo, cẩn trọng trong từng quyết định đưa ra, tránh việc phải sửa sai, thu hồi như đã từng có tiền lệ. Mỗi quyết sách phải dựa trên cứ liệu khoa học, kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn, chớ làm theo cảm tính, để rồi lại phải "nói lại cho rõ".
Thí điểm dạy tiếng Đức và tiếng Hàn ở Đà Nẵng: Vì sao học sinh dần thưa vắng? Đà Nẵng chọn triển khai thí điểm dạy học tiếng Hàn, tiếng Đức là ngoại ngứ thứ 2 từ năm học 2015 - 2016 tại quận Cẩm Lệ. Tuy nhiên, số HS theo học ngày càng ít dần. Hai năm nay, đã dừng tuyển sinh các lớp mới. Một giờ học tiếng Đức tại trường THCS Trần Quý Cáp - ảnh Internet Học...