Siết chặt liên kết đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực GD-ĐT và dạy nghề bao gồm liên kết đào tạo, thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài, thành lập văn phòng nước ngoài đại diện tại Việt nam.
Theo quy định này, các hình thức liên kết đào tạo được phép triển khai gồm: Đào tạo trực tiếp theo chương trình của nước ngoài hoặc chương trình do hai bên xây dựng thực hiện toàn bộ chương trình tại Việt Nam hoặc một phần chương trình tại Việt Nam, một phần chương trình tại nước ngoài cấp văn bằng, chứng chỉ của Việt Nam, của nước ngoài hoặc hai bên cấp riêng theo quy định của từng bên.
Thời hạn hoạt động của chương trình liên kết đào tạo không quá 5 năm, kể từ ngày được phê duyệt và có thể được gia hạn, mỗi lần gia hạn không quá 5 năm. Để được liên kết đào tạo phải đáp ứng những yêu cầu về đội ngũ nhà giáo cơ sở vật chất thiết bị chương trình, quy mô đào tạo, ngôn ngữ giảng dạy. Đáng chú ý có quy định nêu rõ: “Ngôn ngữ sử dụng để giảng dạy các môn chuyên ngành trong liên kết đào tạo để cấp văn bằng nước ngoài là ngoại ngữ, không giảng dạy bằng tiếng Việt hoặc thông qua phiên dịch có thể giảng dạy thông qua phiên dịch đối với các chương trình đào tạo liên kết đào tạo để cấp văn bằng, chứng chỉ của Việt Nam”.
(Ảnh minh họa)
Video đang HOT
Nghị định cũng nhấn mạnh: Chương trình đào tạo nước ngoài thực hiện tại Việt Nam phải là chương trình đã được kiểm định chất lượng ở nước ngoài hoặc chương trình của cơ sở giáo dục đã được tổ chức kiểm định chất lượng hoặc cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài công nhận về chất lượng Cơ sở giáo dục thực hiện liên kết đào tạo phải cung cấp đầy đủ giáo trình, tài liệu học tập phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của HS, SV, học viên cao học và nghiên cứu sinh.
Về đối tượng tuyển sinh vào các chương trình liên kết đào tạo cấp văn bằng phải đáp ứng đủ các điều kiện. Cụ thể như sau, đối với trường hợp cấp văn bằng của cơ sở giáo dục Việt Nam thì phải tuân thủ theo quy định pháp luật Việt Nam về điều kiện tiếp nhận vào học các trình độ trung cấp, CĐ, ĐH, thạc sĩ và tiến sĩ.
Đối với trường hợp cấp văn bằng của cơ sở giáo dục nước ngoài thì phải tuân thủ quy định về theo điều kiện tiếp nhận vào học các trình độ trung cấp, CĐ, ĐH, thạc sĩ và tiến sĩ của cơ sở giáo dục nước ngoài. Các điều kiện này phải tương ứng với điều kiện tiếp nhận của cơ sở giáo dục nước ngoài quy định tại nước sở tại được Bộ GD-ĐT hoặc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chấp nhận.
Nếu đào tạo liên kết mà cả hai phía đều cấp bằng thì phải thỏa mãn đồng thời cả hai quy định trên.
Cũng để tránh việc thiếu năng lực ngoại ngữ nhưng vẫn được tiếp nhận học chương trình liên kết cấp bằng nước ngoài, quy định này cũng đưa ra yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Theo đó, với liên kết trình độ ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ thì đối tượng tuyển sinh ít nhất phải có trình độ B2 theo khung tham chiếu chung châu Âu về năng lực ngoại ngữ hoặc tương đương. Đối với liên kết đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng thì đối tượng tuyển sinh ít nhất phải có trình độ B1 theo khung tham chiếu chung châu Âu về năng lực ngoại ngữ hoặc tương đương.
Căn cứ nhu cầu của người học, các cơ sở giáo dục liên kết có thể tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng giúp thí sinh đạt trình độ theo quy định trước khi tổ chức giảng dạy chính khóa.
Nghị định này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 15/11/2012.
5 loại hình cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoàiTheo Nghị định này thì nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trực tiếp thành lập cơ sở giáo dục theo 2 hình thức: Cơ sở giáo dục 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài cơ sở giáo dục liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.Nghị định cũng nêu rõ 5 loại hình cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập gồm: 1. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn 2. Cơ sở giáo dục mầm non (trường mầm non, trường mẫu giáo, nhà trẻ) thực hiện chương trình giáo dục theo chương trình của nước ngoài, dành cho trẻ em là người nước ngoài 3. Cơ sở giáo dục phổ thông (trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học) thực hiện chương trình giáo dục theo chương trình của nước ngoài, cấp văn bằng của nước ngoài, dành cho học sinh là người nước ngoài và một bộ phận học sinh Việt Nam có nhu cầu 4. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp 5. Cơ sở giáo dục đại học.Trong đó, cơ sở giáo dục phổ thông được phép tiếp nhận học sinh Việt Nam, nhưng số học sinh Việt Nam ở trường tiểu học và trung học cơ sở không quá 10% tổng số học sinh của trường, ở trường trung học phổ thông không quá 20% tổng số học sinh của trường. Học sinh Việt Nam không đủ 5 tuổi không được tiếp nhận vào học chương trình của nước ngoài.
Theo dân trí
Sinh viên thờ ơ với môn học đại cương
Cứ 10 sinh viên (SV) được hỏi thì 4 SV nói không muốn học những môn học đại cương trong chương trình ĐH nếu được lựa chọn.
Phải chăng SV đang thờ ơ với những môn học được xem là nền móng này?
Để tìm hiểu thực tế việc học đại cương của SV, chúng tôi đã thực hiện cuộc khảo sát trên 400 SV ở một số trường ĐH.
SV than, giảng viên cũng than!
Với câu hỏi "Nếu được lựa chọn, bạn có học các môn đại cương trong chương trình học hay không?", có đến 38-54% trả lời "không" (xem bảng). Nhiều bạn cho rằng những môn học này nhàm chán, tốn thời gian, công sức, tiền bạc và "chỉ học cho qua".
Một SV viết: "Những môn học đại cương rất ít phục vụ các môn chuyên ngành và ngành nghề sau này. Giảng viên dạy rất chán. Bài giảng phải chạy đua với lượng kiến thức rất lớn nên khó tiếp thu, học xong không còn nhớ gì hết". Nhiều SV xác nhận ở lớp hầu như SV ít học mà chỉ... ngủ.
Trong bảng khảo sát, nhiều SV đề xuất bỏ bớt những môn học không cần thiết để tập trung thời gian cho chuyên ngành. Bên cạnh đó, nhiều bạn khác cũng cho rằng cần tạo hứng thú, sinh động, tăng làm việc nhóm, thuyết trình, giảm đọc - chép... ở những môn học đại cương. Một điểm đáng chú ý trong bảng khảo sát: khoảng 80% SV nhận định việc học đại cương là cần thiết nhưng nếu được lựa chọn sẽ không học.
Tân sinh viên một trường ĐH tại TP.HCM trong một buổi học đại cương sáng 20-9
Một số giảng viên phụ trách những môn học đại cương thừa nhận khối lượng kiến thức của các môn học này quá nhiều. "Có môn học 90 tiết, sau đó gộp cùng một môn học nữa nhưng số tiết vẫn giữ nguyên. Với lượng kiến thức khổng lồ như vậy, giảng viên "chạy" cho hết chương trình cũng đã khó chứ chưa nói đến việc tạo hứng thú cho lớp học" - một giảng viên ta thán.
TS Nguyễn Công Hoan - giảng viên một trường ĐH - thừa nhận phần lớn những môn đại cương lớp rất đông do dồn nhiều lớp, đến chuyên ngành mới tách lớp ra. "Có lớp vài trăm SV. SV kêu ca học khô khan, nhàm chán nhưng lớp quá đông như vậy muốn buổi học sinh động bằng cách làm việc nhóm, thuyết trình... không phải là chuyện đơn giản" - TS Hoan nói.
Dồn vào góc hẹp tri thức
TS Phan Thị Xuân Yên, Trường ĐH Sài Gòn và thạc sĩ xã hội học Lê Minh Tiến, Trường ĐH Mở TP.HCM, nhận định: do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, SV học những môn chưa thấy liên quan đến chuyên ngành, chưa thấy phục vụ trực tiếp cho công việc sau này thì đều cho là không quan trọng. Ông Tiến phân tích: "Cái nhìn hạn hẹp này của người học bắt nguồn từ suốt những năm phổ thông. Khi đó học sinh chỉ được học toán, lý, hóa, văn, sử, địa... để đi thi ĐH và chỉ biết những môn này. Chính vì vậy, giáo dục phổ thông đã dồn học sinh vào góc hẹp của tri thức. Các em không hình dung được công việc của mình sau này cần những kiến thức liên quan nào".
GS Bành Tiến Long - nguyên thứ trưởng Bộ GD-ĐT - nhận định vai trò của người thầy rất quan trọng khi làm cho SV thấy được lợi ích của việc học những môn đại cương và hậu quả nếu không học. Theo GS Long: "Môn học đại cương cũng phải có ngoại khóa, có giao lưu xã hội, tổ chức tham quan, ngành kỹ thuật phải có thực nghiệm, bài giảng có video minh họa. Thầy phải đặt ra các bài tập tình huống và gợi mở cho SV tìm hiểu, giải đáp. Nói cách khác, thầy là người thiết kế cái khung, còn SV là người thi công chi tiết bài giảng trên khung đó. Như thế giờ học mới sinh động được".
Hướng đến "giáo dục tổng quát"
Theo GS Phạm Phụ (Trường ĐH Bách khoa, ĐH Quốc gia TP.HCM), nước ta gọi "giáo dục đại cương" trong khi các nước dùng cụm từ "giáo dục tổng quát" (general education). Nội dung của giáo dục tổng quát thường bao gồm: kỹ năng nhận thức và năng lực/kỹ năng xã hội (thu thập dữ liệu, quan sát và phân tích, giải quyết vấn đề, thích nghi với môi trường mới, quan hệ xã hội...) những nội dung liên quan đến luân lý, phẩm hạnh, đạo đức những hiểu biết chung về triết học, kinh tế học, luật học, về nhà nước, thiết chế, về lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật...
GS Phụ phân tích: "Giai đoạn đại cương trong giáo dục ĐH ở nước ta, SV sẽ học hai nhóm kiến thức. Thứ nhất là nhóm khoa học cơ bản. Đây là những môn cơ sở để học lên chuyên môn. SV thường nghĩ chỉ học sâu chuyên môn là tốt chứ không quan tâm những môn học này. Thế nhưng, học kết cấu một cái cầu phải cần kiến thức của môn sức bền vật liệu và cơ kết cấu. Hai môn này phải dựa vào môn toán. Do đó, những môn cơ bản hết sức cần thiết. SV có vững chuyên môn hay không thì tùy thuộc vào những môn này. Thứ hai là những môn như chủ nghĩa xã hội khoa học, triết học... Một số môn học ở nhóm này bị chính trị hóa. SV kêu ca nhất ở chương trình đại cương là ở những môn học này". GS Phạm Phụ cho rằng giáo dục ĐH nên hướng đến giáo dục tổng quát trước khi vào chuyên ngành để nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thoe tuổi trẻ
'Nối mạng' với cô gái Việt được Thủ tướng Singapore khen Đầu tháng 9/2012, thông tin về Lê Hà Thanh Mai, cô sinh viên Việt Nam được Thủ tướng Singapore khen ngợi xuất hiện trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng của Singapore. Những nỗ lực trong việc hòa nhập với môi trường mới, đang cùng lúc theo học hai văn bằng (cử nhân quản trị kinh doanh và cử nhân kinh tế)...