Săn lùng lợn nái, lợn hậu bị, giá 11,5-13 triệu đồng/con, muốn mua phải cọc tiền
Giá lợn hơi vẫn đang duy trì mức cao, khiến giá lợn giống cũng tăng lên mức kỷ lục, từ 2,7 – 3,6 triệu đồng/con.
Mức giá này quá hấp dẫn nên nhiều người chăn nuôi đang săn lùng lợn nái, hoặc lợn hậu bị đưa về nuôi.
Tuy nhiên, giá lợn nái, lợn hậu bị rất đắt đỏ, hiện khoảng 11,5 – 13 triệu đồng/con.
Khan hiếm lợn giống, lợn nái
Anh Nguyễn Đắc Thép – chủ cơ sở chăn nuôi tại TP.Hưng Yên ( tỉnh Hưng Yên) cho biết, cơ sở chăn nuôi của anh hiện sở hữu tới 900 con lợn nái cấp cụ kị, ông bà, tuy nhiên việc sản xuất lợn nái bố mẹ, hậu bị (để làm lợn nái đẻ con) luôn không đáp ứng đủ nhu cầu.
Nhiều khách hàng muốn mua lợn hậu bị của anh Thép phải đặt cọc tiền trước, và phải chờ tới 3-4 tháng sau mới đến lượt.
Đàn lợn hậu bị đang được công nhân cơ sở chăn nuôi của anh Nguyễn Đắc Thép chuẩn bị giao cho khách hàng. Ảnh: Đ.T
Khi lợn đẻ, cần tiếp tục theo dõi, ghi lại số liệu liên quan đến sức sinh sản, chất lượng lợn con ở tất cả các lứa đẻ, nếu không đạt cần mạnh dạn loại thải.
Theo ông Trầm Quốc Thắng – Giám đốc HTX Chăn nuôi lợn an toàn Tiên Phong (Củ Chi, TP.HCM), dịch tả lợn châu Phi khiến HTX của ông bị thiệt hại đến 60% tổng đàn.
Do lợn giống để nuôi thịt quá thiếu nên một số nơi ứng phó tạm thời bằng cách giữ lại lợn thịt, chọn những con lợn cái đẹp cho phối giống mang thai để có lợn con nuôi, bỏ qua các yếu tố về di truyền. Tuy nhiên, việc phối giống như vậy khiến năng suất lợn giống thấp (chỉ khoảng 12-15 con/nái), và cũng không thể cho sinh sản nhiều lứa như lợn nái chọn đúng tiêu chuẩn.
Mặc dù kỹ thuật nuôi lợn nái hiện nay đã có nhiều bước tiến triển rõ rệt so với trước đây nhờ ứng dụng công nghệ về giống, dinh dưỡng, vệ sinh thú y, chuồng trại, trang thiết bị chuyên dụng… nhưng thực tế cho thấy, người chăn nuôi vẫn thường xuyên gặp các vấn đề như lợn cái hậu bị chậm hoặc rối loạn lên giống, tỷ lệ đậu thai thấp, đẻ ít con, lợn con yếu, chết non…
Công nhân tại Trại sản xuất lợn hậu bị của anh Thép đang lùa lợn để đưa lên xe đưa đi tiêu thụ. Ảnh: Đ.T
Video đang HOT
Giống lợn phù hợp nuôi sinh sản hiện nay là giống Yorkshire và Landrace thuần hoặc lợn lai (cha) Yorkshire x (mẹ) Landrace (nếu sử dụng tinh nọc là giống Landrace và mẹ là giống Yorkshire thì khả năng sinh sản của lợn cái lai sau này vẫn được nhưng thấp hơn một chút).
Nắm vững 6 điểm
Theo tư vấn của các chuyên gia Trung tâm Khuyến nông quốc gia, muốn khắc phục tình trạng trên, người nuôi lợn nái cần tập trung rà soát lại hiện trạng để áp dụng 6 biện pháp quản lý và kỹ thuật sau:
1. Sử dụng con giống tốt
Giống lợn phù hợp nuôi sinh sản hiện nay là giống Yorkshire và Landrace thuần hoặc lợn lai (cha) Yorkshire x (mẹ) Landrace (nếu sử dụng tinh nọc là giống Landrace và mẹ là giống Yorkshire thì khả năng sinh sản của lợn cái lai sau này vẫn được nhưng thấp hơn một chút).
Lợn cái hậu bị cần có nguồn gốc rõ ràng. Trong quá trình nuôi cần đánh giá sức phát triển, ngoại hình để quyết định lưu giữ hay loại thải. Nên mua lợn cái hậu bị có trọng lượng ít nhất trên 60kg, thay vì mua lúc nhỏ, lẻ bầy. Điều này sẽ giúp giảm tình trạng lợn nái không đạt yêu cầu phải loại thải.
2. Dinh dưỡng phù hợp
Nhu cầu dinh dưỡng của lợn nuôi sinh sản có thể phân thành 4 giai đoạn khác nhau về số lượng và thành phần các chất bên trong khẩu phần thức ăn: Hậu bị, mang thai, nuôi con và nái khô chờ phối.
Trước đây, người nuôi lợn nái gặp khá nhiều khó khăn trong việc phối trộn thức ăn phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của lợn cái. Nhưng hiện nay, có rất nhiều loại thức ăn công nghiệp đóng bao chuyên dụng, bà con dễ dàng mua sử dụng. Nếu cần, người nuôi có thể điều chỉnh tăng, giảm một chút số lượng thức ăn hoặc bổ sung một số chất vi dinh dưỡng (khoáng, vitamin, axit amin hoặc một số loại men tiêu hóa) nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thức ăn.
3. Tạo tiểu môi trường chăn nuôi thích hợp
Đối với các trường hợp xây chuồng trại mới hay cải tạo chuồng trại đã có đều cần đáp ứng được các yêu cầu sau: Sạch sẽ, thông thoáng, thuận tiện công việc vệ sinh và xử lý chất thải.
Trong điều kiện diễn biến khí hậu ngày càng phức tạp, dịch bệnh khó lường, người nuôi nên nuôi mật độ thưa hơn mức kỹ thuật khuyến cáo chung. Tăng độ cao chuồng nuôi, trồng cây xanh che bớt nắng. Đào ao gần nơi nuôi kết hợp lấy mặt nước giảm nhiệt và xử lý chất thải, lắp đặt hệ thống phun sương trong chuồng…
4. Áp dụng chuồng lồng
Nguyên tắc chung là tạo môi trường yên tĩnh để hạn chế các tác động gây stress (choáng) do tiếng động lớn, chuyển chuồng, xua đuổi hay lợn cắn nhau, nhất là khi lợn mang thai và đẻ. Tốt nhất là từ lúc phối giống, lợn hậu bị nên nuôi tách riêng bằng chuồng lồng để vừa thuận tiện theo dõi (đánh giá thể trạng, sức khỏe, phối giống, sử dụng vaccine…) vừa giảm các tác động gây stress. Cách nuôi riêng cá thể này tiếp tục áp dụng cho các giai đoạn mang thai, đẻ nuôi con và cả nái khô chờ phối lại.
5. Vệ sinh thú y chặt chẽ
Tiêm đầy đủ vaccine và thuốc thú y theo hướng dẫn phòng bệnh; vệ sinh chuồng trại, xử lý chất thải, kiểm soát người và phương tiện ra vào nơi chăn nuôi… Tốt nhất là tuân thủ các phương thức chăn nuôi an toàn sinh học cho mọi thời điểm, tình huống, kể cả lúc không có dịch bệnh cũng như lúc có dịch đe dọa.
6. Ghi nhật ký chăn nuôi
Việc ghi chép sẽ giúp người chăn nuôi đánh giá được quá trình sinh trưởng, sinh sản của lợn hậu bị để có những điều chỉnh kịp thời về con giống, chế độ dinh dưỡng, cách chăm sóc, quy trình vệ sinh thú y, tính toán hiệu quả kinh tế qua con số thu, chi.
Phát triển nông nghiệp hữu cơ: Cần nông dân đủ lực, sản phẩm đủ mạnh
Mục tiêu đến năm 2025, diện tích nhóm đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ đạt khoảng 1,5 - 2% tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp; sản phẩm chăn nuôi hữu cơ đạt khoảng 1 - 2% trong tổng sản phẩm chăn nuôi sản xuất trong nước...
Đó là mục tiêu phát triển nông nghiệp hữu cơ mà Chính phủ vừa phê duyệt.
Dù đó là những con số rất nhỏ, nhưng để đạt được lại không đơn giản.
Vừa qua, tại các địa phương đã có nhiều nông dân, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, trong số đó cũng có mô hình đã thu được kết quả bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng, lợi thế nhiều doanh nghiệp, HTX sản xuất sản phẩm hữu cơ vẫn đang phải đương đầu với nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là về vốn và chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Nhiều lợi ích
Đến xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, hỏi anh Nguyễn Mạnh Thắng, ai cũng biết. Anh là người đầu tiên của xã thành công trong việc sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP và đang thực hiện chuyển đổi sản xuất chè theo quy trình hữu cơ.
Đưa chúng tôi đi thăm những nương chè xanh mướt, anh Thắng say sưa nói về yếu tố cần thiết trong sản xuất sạch và lợi ích của sản xuất sạch mang lại cho nông dân... Anh Thắng cho biết, từ khi chuyển đổi phương pháp canh tác truyền thống sang sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, giá trị cây chè đã được nâng lên từ 2 - 2,5 lần.
Để mở rộng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, năm 2015, anh Nguyễn Mạnh Thắng quyết định thành lập HTX chè Ngân Sơn Trung Long. Đến tháng 3/2017, sản phẩm chè xanh của HTX chè Ngân Sơn Trung Long được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể "Chè xanh Trung Long".
Hiện nay, HTX chè Ngân Sơn Trung Long có 20ha chè, với 40 thành viên, 5,5ha chè sản xuất theo quy trình VietGAP, 3ha chè sản xuất theo quy trình hữu cơ, doanh thu đạt trên 3 tỷ đồng mỗi năm. HTX đã tạo việc làm ổn định cho 20 lao động địa phương với mức thu nhập từ 4-5 triệu đồng/người/tháng.
Chia sẻ về dự định trong tương lai, anh Thắng cho hay: HTX chè Ngân Sơn Trung Long đang liên kết với các doanh nghiệp, HTX cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm chè cho thành viên và những hộ dân trồng chè tại địa phương.
Là một trong những mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ mới nổi ở Bắc Giang, ngoài áp dụng nhiều giải pháp trong chăn nuôi, HTX Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh ở xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa còn đầu tư cơ sở giết mổ, máy móc sản xuất chuyên sâu, tạo ra các sản phẩm từ thịt lợn chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tháng 5/2019, HTX đầu tư thêm nhiều máy móc hiện đại trị giá hơn 1 tỷ đồng để phục vụ giết mổ và chế biến sâu nhằm gia tăng giá trị sản phẩm. Hiện thịt lợn và các sản phẩm sau chế biến từ thịt lợn của HTX được tiêu thụ chủ yếu tại thị trường Hà Nội.
Đến nay HTX Bình Minh đã liên kết ổn định với 5 cơ sở chăn nuôi trong và ngoài huyện với tổng số lợn xuất chuồng 12.000 con/năm. Anh Nguyễn Ngọc Hải - Giám đốc HTX Bình Minh cho rằng: "Giữa bối cảnh dịch tả lợn châu Phi vẫn còn hiện hữu, bên cạnh việc áp dụng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, HTX của tôi cũng đang đặt cám sản xuất theo phương thức riêng. Theo đó, thành phần trong thức ăn chăn nuôi khi sản xuất có thêm một số thảo dược, giúp lợn tăng sức đề kháng. Ngoài ra, tôi còn thiết kế công thức thức ăn chăn nuôi theo phần mềm FeedLIVE để cân đối chỉ số nhu cầu của lợn trong từng giai đoạn, khiến chất lượng thịt thơm ngon hơn, giá bán cao hơn lợn thường".
Anh Nguyễn Mạnh Thắng trong vườn chè sản xuất theo hướng hữu cơ ở SơnDương, Tuyên Quang. ảnh M.N
Các sản phẩm của HTX hiện nay bao gồm: Thịt lợn sơ chế đóng gói, giò, chả, xúc xích, thịt hun khói, dăm bông... được người tiêu dùng đánh giá cao. Trung bình cơ sở giết mổ 40 con lợn/ngày. Được biết, trong năm 2019 doanh thu của HTX đạt hơn 20 tỷ đồng. Dù đang trong giai đoạn thử nghiệm nhưng giá trị gia tăng sau chế biến thịt lợn đạt thêm 300 triệu đồng.
Cần gỡ khó nhiều vướng mắc
Cách đây hơn 10 năm, doanh nghiệp của ông Phạm Như Ngũ ở huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) là một trong số ít doanh nghiệp đầu tiên ở địa phương chọn sản xuất nông nghiệp hữu cơ làm căn bản cho sản xuất. Thế nhưng giai đoạn đó hầu như không ai quan tâm đến sản phẩm hữu cơ và sẵn sàng đánh đồng sản phẩm này với những sản phẩm thông thường. Điều này khiến cho doanh nghiệp dù có tiềm lực khởi đầu mạnh như đơn vị của ông cũng chùn bước.
Cũng theo ông Ngũ, ngoài sự thiếu hụt về nguồn vốn, hiện việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn thiếu nhiều chất xúc tác khác để ngành có thể hoàn thiện.
Trước mắt, đó là các quy định về diện tích sản xuất tập trung, tách biệt, có vùng đệm, cũng như con giống chất lượng cao, hạ tầng thiếu thốn, các quy định về tiêu chuẩn hữu cơ trong nước chưa tương thích với các quy định tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế, ngay cả một trung tâm kiểm định và chứng nhận cũng chưa có để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nông dân hoạt động.
Ngoài ra, các nguyên liệu phục vụ cho sản xuất vật tư nông nghiệp hữu cơ như phân hữu cơ, nguồn vi sinh hợp chuẩn quốc tế chưa được chú trọng, cũng chưa có quy định cụ thể, rõ ràng.
Ông Ngũ cho hay: Ngành nông nghiệp hữu cơ trong nước vẫn còn yếu về khâu bảo quản sau thu hoạch, chế biến để đảm bảo nguồn dinh dưỡng sản phẩm ổn định, chưa áp dụng được nhiều công nghệ sinh học vào quá trình sản xuất. Chính vì thế, để giải được bài toán này cần phải có sự vào cuộc quyết liệt cùng với các giải pháp đồng bộ từ nhiều bộ, ngành, các địa phương mới có thể tháo gỡ được.
Về việc Chính phủ vừa phê duyệt đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ, ông Phạm Như Ngũ bày tỏ: Làm nông nghiệp hữu cơ khó khăn nhưng khi có sản phẩm bán ra thịt trường bị đánh đồng như sản phẩm bình thường thì người sản xuất sẽ chán nản vô cùng và dễ bỏ cuộc. Chính vì thế, khi Chính phủ và các bộ, ngành cần phải xem xét giải quyết được thực trạng này mới mong thu hút được nhiều nông dân, doanh nghiệp tham gia.
Về đề án mới này, anh Nguyễn Mạnh Thắng tỏ ra rất vui mừng vì sản phẩm chè nằm trong số các sản phẩm được Nhà nước khuyến khích, ưu tiên hỗ trợ.
Về việc hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ, anh Thắng cho rằng: "Bên cạnh việc hỗ trợ, gỡ vướng mắc về vốn, đất đai, Nhà nước cần phải tiến hành đào tạo cơ bản đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, đủ năng lực và kỹ năng ứng dụng công nghệ cao, tạo dựng nền nông nghiệp hữu cơ hiện đại giúp nông dân tăng thu nhập và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững".
Thủ tướng đánh giá cao nỗ lực giảm giá thịt lợn của Bộ NNPTNT, đàn lợn sẽ tăng mạnh từ quý IV/2020 Trong cuộc họp Ban chỉ đạo điều hành giá, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao những biện pháp mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) đưa ra nhằm kìm giá thịt lợn như: tăng đàn, tái đàn, nhập lợn sống. Thời gian tới, Bộ NNPTNT sẽ đẩy nhanh tiến độ và quy mô tái đàn, khôi...