Rục rịch chuyển hạng, xếp lương mới giáo viên, vui nhất là các thầy cô hạng II
Để không còn tình trạng mỗi nơi xét chuyển hạng xếp lương mỗi kiểu như hiện nay, nhiều hiệu trưởng cũng cho biết vẫn rất cần sự hướng dẫn cụ thể từ cấp Bộ.
Ảnh minh họa
Thời gian này, nhiều địa phương trong cả nước bắt đầu việc chuyển xếp hạng giáo viên theo chùm Thông tư 01; 02; 03; 04/2021/TT-BGDĐT. Điều làm nhiều thầy cô giáo băn khoăn, lo lắng nhất là hiện bản thân đang ở hạng II (cũ) khi chuyển xếp hạng có được chuyển ngang sang hạng II (mới) hay phải xuống hạng III?
Nhiệm vụ của giáo viên hạng II bậc trung học cơ sở khá mở (Ảnh chụp từ Thông tư 03/2021)
Do mỗi đơn vị đọc hiểu văn bản mỗi khác nên giữa các địa phương có sự vận dụng khác nhau dẫn đến việc chuyển xếp hạng và xếp lương giáo viên theo chùm Thông tư 01; 02; 03; 04/2021 rơi vào tình trạng trăm hoa đua nở để không ít giáo viên được hưởng lợi nhưng khá nhiều thầy cô lại quá thiệt thòi.
Trăm hoa đua nở khi chuyển xếp hạng giáo viên
Ví như khi xét Đề án bổ nhiệm và xếp lương vào chức danh nghề nghiệp giáo viên bậc trung học cơ sở theo Thông tư 03/2021, có trường chỉ giáo viên đang làm tổ trưởng chuyên môn được chuyển ngang từ hạng II (cũ) sang hạng II (mới).
Nhưng lại có không ít trường, họ chuyển tất cả giáo viên đang giữ hạng II (cũ) sang hạng II (mới) mà không riêng gì tổ trưởng. Rõ ràng, cách chuyển xếp không đồng nhất thế này, sẽ dẫn đến việc nhiều giáo viên sẽ bị mất quyền lợi rất lớn.
Ngoài việc chuyển xếp hạng, việc các trường còn tranh cãi nhau ở việc chuyển xếp lương. Có trường cho rằng, khi được chuyển qua hạng II mới, giáo viên đang ăn lương ở bậc 2.67; 3.0; 3.33; 3.66; 3.99 đều chuyển sang 4.0. Lại có trường chỉ chuyển cho giáo viên đang ở hệ số 3.99 chuyển qua 4.0.
Hay như việc giáo viên ở hạng II (cũ) công tác chưa tới 9 năm buộc phải xuống hạng III nhưng có địa phương lại cho rằng, đây không phải dự thi hoặc xét thăng hạng mà là chuyển cùng hạng từ hạng cũ sang hạng mới nên không cần áp dụng đủ 9 năm giữ hạng ấy.
Trong phạm vi bài viết này, người viết muốn chia sẻ hiểu biết của bản thân về những quy định chuyển xếp hạng giáo viên bậc trung học cơ sở qua Thông tư 03/2021 để các bạn đồng nghiệp trên toàn quốc cùng trao đổi, thảo luận, làm rõ.
Điều 4. Giáo viên trung học cơ sở hạng II – Mã số V.07.04.31
1. Nhiệm vụ
Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên trung học cơ sở hạng III, giáo viên trung học cơ sở hạng II phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
a) Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới từ cấp trường trở lên;
Chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
b) Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên;
c) Tham gia các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng; thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục học sinh;
Video đang HOT
d) Tham gia đoàn đánh giá ngoài; hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên từ cấp trường trở lên;
đ) Tham gia ban giám khảo hoặc ban ra đề hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có).
Xét về nhiệm vụ yêu cầu của giáo viên trung học cơ sở hạng II, tất cả giáo viên đang giữ hạng II (cũ) được chuyển qua hạng II (mới) là đúng?
Thầy giáo Th. (đề nghị không nêu tên) Hiệu trưởng một trường trung học cơ sở tại Bình Thuận phân tích về các nhiệm vụ của giáo viên trung học cơ sở hạng II (mới) được quy định trong Điều 4 như sau:
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ a trong Điều 4:
a) Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới từ cấp trường trở lên; chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
Với nhiệm vụ này, giáo viên bậc trung học cơ sở nào cũng thực hiện đủ. Bởi yêu cầu về nhiệm vụ khá mở, luôn có từ hoặc đi kèm. Nghĩa là, giáo viên không làm nhiệm vụ này sẽ thực hiện nhiệm vụ khác.
Có người làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng hoặc dạy thử nghiệm các mô hình mới…
Trong sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, giáo viên nào mà chẳng phải dạy xoay vòng các mô hình giáo dục mới, các phương pháp dạy học mới…
Đối với ý chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
Nếu như chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn, chúng ta nghĩ ngay đến tổ trưởng chuyên môn. Thế nhưng yêu cầu còn mở ra cho nhiều giáo viên khác là hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử; Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy thì thầy cô giáo nào cũng phải tham gia xây dựng học liệu điện tử cho tổ, cho trường.
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ b trong Điều 4:
b) Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên;
Khác với bậc tiểu học, Phó hiệu trưởng chuyên môn ở trường trung học cơ sở không thể chấm sáng kiến kinh nghiệm (đôi khi không trùng môn) của tất cả giáo viên trong trường. Vì thế, cứ mỗi một sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên ở cấp trường đều giao cho các tổ chuyên.
Từ tổ, mỗi giáo viên được phân công đọc, chấm sáng kiến kinh nghiệm của các thành viên tổ mình. Sau đó, cả tổ sẽ chấm lại lần cuối trước khi đưa kết quả lên ban liên tịch nhà trường.
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ đ trong Điều 4:
Ở nhiệm vụ đ) Tham gia ban giám khảo hoặc ban ra đề hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có).
Ở nhiệm vụ này, quy định đã mở hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có). Người hướng dẫn trong các hội thi của học sinh thì giáo viên nào chẳng đảm nhận?
Tuy thế, có phải hiệu trưởng nào cũng phân tích thấu tình đạt lý như thế nên trường có hiệu trưởng thấu đáo, giáo viên được nhờ, trường hiệu trưởng khắt khe, giáo viên thiệt thòi.
Để không còn tình trạng mỗi nơi xét chuyển hạng xếp lương mỗi kiểu như hiện nay, nhiều hiệu trưởng cũng cho biết vẫn rất cần sự hướng dẫn, tập huấn cụ thể từ cấp Bộ.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Tất cả giáo viên hạng II cũ sẽ sang hạng II mới không cần thời gian giữ hạng?
Thực tế, các Thông tư mới về xếp hạng giáo viên còn có rất nhiều vấn đề bất cập, bất hợp lý cần được xem xét.
Ngày 9/10, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết "Thông tư mỗi người hiểu một kiểu, giáo viên hạng II tức tưởi vì xuống hạng III".
Có phản ánh trường hợp 1 giáo viên tiểu học hạng II cũ của 1 giáo viên tiểu học Thầy giáo H. (đề nghị không nêu tên) cho biết: "Tôi ra trường được 6 năm, đã giữ hạng II được 4 năm, hiện đang ăn mức lương 2.67. Nếu theo quy định của Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT thì tôi có đầy đủ các yêu cầu nên phải được xét chuyển qua hạng II mới với hệ số lương là 4.0. Thế nhưng, nhà trường lại chuyển tôi xuống hạng III với lý do chưa đủ năm công tác (và chưa đạt hệ số lương 3.99). [1]
Ngày 10/10, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam tiếp tục đăng tải bài viết "Bổ nhiệm lại chức danh theo Thông tư mới Bộ không hướng dẫn, giáo viên kêu ai?" của cùng tác giả Phan Tuyết. [2]
Trong bài viết này tác giả Phan Tuyết tiếp tục nêu vấn đề chuyển từ hạng II cũ ở bậc tiểu học ở hạng II mới và trả lời của Bộ Giáo dục và Đào tạo của thầy giáo Phạm Khánh (Thái Nguyên) gửi cho Bộ Giáo dục [3].
Ảnh chụp màn hình.
Cụ thể: Thầy giáo Phạm Khánh là giáo viên dạy bậc trung học cơ sở hiện đang giữ hạng giáo viên trung học cơ sở hạng II cũ (mã số V.07.04.11) nhưng chưa đủ 9 năm, có bằng cử nhân sư phạm và chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng II, giáo viên dạy giỏi cấp trường.
Thầy Phạm Khánh thắc mắc liệu mình có đủ điều kiện về thời gian công tác để xét chuyển sang hạng II mới (mã số V.07.04.31) hay không?
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trả lời như sau:
Quy định về thời gian giữ hạng tại Điểm k Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 03/2021/TT-BGDĐT là quy định đối với trường hợp viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS từ hạng III (mã số V.07.04.32) lên hạng II (mã số V.07.04.31).
Trường hợp của ông Phạm Khánh không phải là thi hoặc xét thăng hạng mà là bổ nhiệm lại hạng chức danh nghề nghiệp từ quy định cũ (Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BGDĐT-BNV) sang hạng chức danh nghề nghiệp tương ứng theo quy định mới (Thông tư số 03/2021/TT-BGDĐT) nên không cần phải xét tiêu chuẩn về thời gian giữ hạng.
Chuyển từ giáo viên tiểu học, trung học cơ sở từ hạng II cũ sang hạng II mới có cần đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn không?
Ảnh minh hoạ: TTXVN
Đọc phần trả lời của Bộ Giáo dục và Đào tạo [3] được tác giả Phan Tuyết trích dẫn qua bài viết trên, tôi vô cùng bất ngờ.
Nếu như vậy thì 100% giáo viên ở hạng II cũ (hệ số lương 2,34- 4,98) là giáo viên ở tiểu học, trung học cơ sở đều được chuyển sang hạng II mới (hệ số lương 4,0 - 6,38) mà không cần tuân thủ điều khoản chuyển tiếp của thông tư mới?
Phần trả lời của Bộ Giáo dục và Đào tạo trên tôi cho rằng chưa phù hợp với các lý do sau đây:
Thứ nhất , tại các Thông tư 02, 03/2021/TT-BGDĐT về bổ nhiệm xếp lương mới của giáo viên tiểu học, trung học cơ sở thì tại mỗi hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên đều có các tiêu chuẩn gồm: Tiêu chuẩn về nhiệm vụ; Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp; Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng; Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Mỗi tiêu chuẩn có nhiều tiêu chí, đó là các tiêu chuẩn của giáo viên ở mỗi hạng để được bổ nhiệm ở hạng nào phải đáp ứng các tiêu chuẩn của hạng đó.
Theo Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT có quy định:
Ở Điều 6. Nguyên tắc bổ nhiệm theo chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên tiểu học
"1. Việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên tiểu học quy định tại Thông tư này phải căn cứ vào vị trí việc làm đang đảm nhận và bảo đảm đạt tiêu chuẩn hạng chức danh nghề nghiệp được quy định tại Điều 3, Điều 4, Điều 5 và quy định tại Điều 7 Thông tư này."
Tại Điều 7. Các trường hợp bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học
[...] 3. Giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.07) chưa đạt các tiêu chuẩn của hạng tương ứng theo quy định tại Điều 4 Thông tư này thì được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29).
Tại Điều 9. Điều khoản chuyển tiếp quy định:
[...] 3. Trường hợp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.07) do chưa đạt các tiêu chuẩn của hạng II (mã số V.07.03.28) nên bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29) theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Thông tư này sau khi đạt các tiêu chuẩn của hạng II (mã số V.07.03.28) thì được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.28) mà không phải thông qua kỳ thi hoặc xét thăng hạng.
Ở Thông tư 02 cũng như Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT đều quy định như trên, tức là giáo viên tiểu học, trung học cơ sở ở hạng II cũ để được bổ nhiệm hạng II mới phải đảm bảo các tiêu chuẩn hạng đang giữ, nếu không thì phải xếp hạng III mới, sau đó khi nào đủ tiêu chuẩn thì được chuyển lên hạng II mới mà không phải thi/ xét thăng hạng.
Thứ hai , Công văn 971 của Bộ về hướng dẫn bổ nhiệm, chuyển xếp lương cũng yêu cầu đảm bảo đủ tiêu chuẩn.
Cụ thể Công văn Số: 971/BGDĐT-NGCBQLGD về việc triển khai thực hiện mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập.
Ở mục "2. Một số lưu ý cụ thể
a) Việc bổ nhiệm vào các hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên ở từng cơ sở giáo dục phải đúng người đúng việc, bảo đảm đủ các yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh nghề ở từng hạng. [...]"
Thứ ba , nếu tất cả hạng II cũ đều được chuyển qua hạng II mới thì không hợp lý?
Như đã trình bày ở trên, giáo viên ở tiểu học, trung học cơ sở nếu đang ở hạng II cũ (hệ số lương 2,34 - 4,98) không đảm bảo tiêu chuẩn đều được chuyển qua hạng II mới có hệ số lương 4,0 đến 6,38 thì rất bất hợp lý, việc này không căn cứ vào tiêu chuẩn sẽ là một bất công, thiệt thòi rất lớn cho hàng hàng giáo viên đang có trình độ thạc sĩ, đại học đang hưởng lương trung cấp, cao đẳng khi chuyển lương mới chỉ được hạng III mới được tác giả Minh Khôi nêu trong bài viết "Chuyển hạng, xếp lương giáo viên còn nhiều bất cập, mất công bằng" và nhiều bài viết khác.
Nếu như tác giả Phan Tuyết phản ánh thầy H. ở Biên Hòa công tác 6 năm có hệ số lương 2,67 và nhiều trường hợp khác nếu được chuyển qua hạng II mới có hệ số lương 4,0 thì sẽ cao hơn nhiều giáo viên có bằng đại học hơn 10 năm, dạy hơn 20 năm. Nếu vậy có công bằng?
Thực tế, Thông tư xếp lương mới còn có rất nhiều vấn đề bất cập, bất hợp lý cần được xem xét. Một lần nữa rất mong Bộ Giáo dục và Đào tạo có hướng dẫn cụ thể để các địa phương thực hiện và xin Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm đến những bất công, thiệt thòi của những giáo viên có trình độ đại học, thạc sĩ đang hưởng lương trung cấp, cao đẳng khi chuyển xếp lương mới rất thiệt thòi.
Tài liệu tham khảo:
[1]https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/thong-tu-moi-nguoi-hieu-mot-kieu-giao-vien-hang-ii-tuc-tuoi-vi-xuong-hang-iii-post221588.gd
[2]https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/bo-nhiem-lai-chuc-danh-theo-thong-tu-moi-bo-khong-huong-dan-giao-vien-keu-ai-post221610.gd?
[3]https://chinhsachonline.chinhphu.vn/Chi-tiet-cau-hoi/Khong-xet-thoi-gian-giu-hang-khi-bo-nhiem-lai-chuc-danh-nghe-nghiep/30001.vgp
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Giáo viên mới vào ngành năm 2019 có đủ điều kiện bổ nhiệm hạng II? Bạn có thể có đầy đủ bằng cấp, chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II nhưng theo Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT thì còn nhiều tiêu chí lắm. Bạn đọc An Lê, có địa chỉ email là lenguyenhongan...@gmail.com đã viết thư gửi cho Tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhờ tư vấn về trường hợp của mình, nội...