Rau má chữa bệnh
Nói tới rau má, hầu hết nhân dân ta, nhất là vùng nông thôn, ai cũng nhận biết được dễ dàng. Đã từ lâu, nhân dân ta biết dùng rau má làm món rau ăn, thậm chí có thể ăn rau má đến no bụng, hỗ trợ lương thực thiếu vào những ngày giáp hạt thuở xa xưa. Bởi thế ở xứ Thanh thường có câu: Đói thì ăn rau má, chớ đào nghèn núi đá què chân!
Rau má mọc hoang ở khắp nơi, nhiều nhất là ở các bãi cỏ, dọc đường sắt, bờ kênh mương, bãi phù sa ven sông…Hiện nay một vài nơi trồng đại trà rau má để bán làm rau ăn, làm thuốc và nguyên liệu chế biến nước giải khát.
Rau má có vị hơi đắng, thơm, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, lợi tiểu, tiêu viêm, sát trùng, cầm máu…Người ta thu hái loại rau má bánh tẻ, cả lá và dây, rửa sạch, làm món rau sống trong bữa ăn; hoặc có thể giã nát (hoặc xay) vắt lấy nước, bỏ thêm ít đường uống giải nhiệt, giải khát trong những ngày nắng nóng. má đem luộc chính, ăn để chữa tiểu tiện đục, sỏi thận, sỏi bàng quang, ngày dùng 40-50g tươi.
Rau má còn để chữa sốt, bệnh gan, thổ huyết, chảy máu cam, tả lỵ, khí hư, bạch đới; ngày dùng 30-40h tươi, giã nát vắt lấy nước hoặc sắc lấy nước uống. Phụ nữ có kinh đau bụng, đau lưng dùng rau má phơi khô tán nhỏ, ngày uống 1 lần vào buổi sáng, mỗi lần 2 thìa cà phê, chiêu với nước.
Khi bị rôm sảy, mẩn ngứa dùng rau má tươi trộn dầu, giấm, ăn hàng ngày hoặc giã nát vắt lấy nước uống. Nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy hoạt chất của rau má là những saponin (axit Asiatic, axit brahmic) có tác dụng giúp các mô liên kết tái tạo nhanh chóng làm các tổn thương mau lành và lên da non.
Rau má chế thành dạng cao khô rồi bào chế thành dạng viên nén 0,01 dùng chữa bệnh giãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở tĩnh mạch chân chậm trở về tim, ngày uống 3-6 viên vào bữa ăn.
Video đang HOT
Dạng thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột để chữa vết bỏng, vết thương, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng).
Theo SK&ĐS
Thạch lựu làm thuốc
Cây lựu còn có tên gọi là tháp lựu, thạch lựu, an thạch lựu, đan nhược, kim bàng, kim tương, tạ lựu... là một loại cây nhỏ, thuộc mộc, cao chừng 2-3m, thân xám có vỏ mỏng, cành mảnh, lá đơn mọc đối, hình thuôn dài, mép nguyên cuống ngắn.
Hoa lựu màu đỏ tươi hoặc màu trắng (bạch lựu) mọc riêng lẻ, hoa thường nở về mùa hè. Quả da màu lục, khi chín màu vàng đỏ lốm đốm. Trong quả có 8 ngăn xếp thành hai tầng, tầng trên có 5 ngăn, tầng dưới có 3 ngăn, phân cách nhau bởi một màng mỏng. Hạt rất nhiều, hình 5 cạnh, sắc hồng trắng, có vị ngọt, thơm.
Cây lựu được trồng ở khắp nơi để làm cảnh và lấy quả ăn. Vỏ quả lựu vị chua, chát, tính ôn, có tác dụng làm săn ruột, cầm tiêu chảy, ... Theo sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, quả lựu có vị ngọt, chua, chát, tác dụng làm nhuận được họng bị khô, trừ được lao. Rễ dùng sát trùng rất tốt và trị được huyết lậu.
Quả lựu cũng là một vị thuốc. (Ảnh minh họa).
Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh:
Bài 1: Chữa nổi mày đay, mẩn ngứa do nhiệt: Vỏ quả lựu tươi, ké đầu ngựa, bèo cái, bồ công anh, thổ phục linh, hà thủ ô, mỗi loại 12 g xác ve sầu, mã đề, cam thảo đất, mỗi thứ 8g. Cho tất cả vào nồi ngâm với 750 ml nước trong 15 phút, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Mỗi liệu trình 3-5 ngày.
Bài 2: Chữa ho do nhiễm lạnh: Hoa lựu trắng tươi 24 bông, đường phèn 15g. Cho tất cả vào nồi ngâm với 500 ml nước trong 15 phút, sắc còn 150 ml, chia 2 lần uống trước khi đi ngủ. Mỗi liệu trình 7-10 ngày.
Bài 3: Hỗ trợ trị viêm tiền liệt tuyến: Hoa lựu tươi 30g nấu canh với thịt lợn ăn hàng ngày.
Bài 4: Chữa chảy máu cam: Hoa lựu 6g, rửa sạch cho 250 ml nước, sắc còn 100 ml, chia 2 lần uống trong ngày. Mỗi liệu trình 5-7 ngày.
Bài 5: Tẩy giun đũa, giun kim, giun tóc: Vỏ quả lựu 15 g; binh lang (hạt cau già) 10g. Sắc sắc 3 lần rồi cô lại còn 100ml, thêm đường đủ ngọt (20g). Uống vào buổi tối trước khi đi ngủ (sau khi ăn 3 giờ), liên tục trong 3 ngày.
Chú ý: Vỏ quả lựu cần sao khô, giã cho dập thành bột thô rồi mới sắc để rút hết chất thuốc. Hoa lựu nên thu hái khi mới nở, dùng tươi hoặc đem phơi trong bóng râm mát cho khô rồi cho vào lọ đậy kín, cất giữ nơi khô ráo để dùng dần. Hoa vỏ quả và vỏ rễ thạch lựu không nên dùng cho người bị táo bón.
Theo SK&ĐS
Thuốc hay từ dứa dại Lá dứa dại có vị đắng cay, thơm với công năng sát khuẩn, long đờm. Rễ dứa dại được sử dụng làm thuốc nhiều hơn, có vị ngọt nhạt, tính mát, lợi tiểu, tiêu độc, viêm đường tiết niệu... Dứa dại là loại cây mọc hoang ở nhiều vùng, trên các bãi cát ẩm, dọc ven bờ suối, bờ sông ngòi. Trong Đông...