Phải làm gì khi tiền trong thẻ ATM tự “bốc hơi”?
Nhiều khách hàng ngơ ngác không biết làm gì khi số tiền tiết kiệm để trong ATM bỗng dưng bị biến mất trong khi thẻ vẫn cầm trong tay.
Người dân cần tự bảo mật dữ liệu thẻ của mình khi đi rút tiền tại các cây ATM để tránh mất tiền. (Ảnh minh họa)
Thời gian gần đây, liên tục xảy ra các trường hợp người dân bị mất tiền trong tài khoản ATM khi thẻ giữ bên người. Hiện tượng này xảy ra tại dịch vụ ATM của nhiều ngân hàng như Vietcombank, BIDV… khiến nhiều người lo lắng.
Tuy nhiên, nhiều người bị mất tiền, họ không biết nên phải bắt đầu từ đâu và làm cách nào để lấy lại được số tiền đã mất. Về vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Luật sư Trần Sỹ Hoàng – Văn phòng luật sư Ánh Sáng Công Lý để làm rõ.
Khi tiền trong tài khoản bị rút mà thẻ ATM vẫn giữ bên người, chủ thẻ cần phải làm gì đầu tiên, thưa luật sư?
Luật sư Trần Sỹ Hoàng: Hiện các ngân hàng có dịch vụ SMS Banking, nếu chủ thẻ sử dụng dịch vụ này, khi thực hiện giao dịch rút tiền, ngân hàng sẽ thông báo tin nhắn đến chủ thẻ.
Ngay khi phát hiện tiền trong tài khoản bị mất mà không phải do chủ thẻ thực hiện giao dịch, chủ thẻ cần ngay lập tức báo cho ngân hàng biết và yêu cầu ngân hàng kiểm tra, thậm chí khóa tài khoản. Sau đó, chủ tài khoản làm văn bản gửi đến ngân hàng để yêu cầu giải quyết.
Khách hàng không tiết lộ mã pin cũng không cho ai mượn thẻ nhưng vẫn mất tiền. Trong khi, ngân hàng cũng đưa ra lý lẽ rằng rất khó để kiểm chứng được việc này. Vậy vấn đề sẽ được giải quyết như thế nào?
Ngân hàng chỉ có trách nhiệm bảo quản tiền, cung cấp số PIN ban đầu và thẻ ATM cho người sử dụng. Chủ thẻ chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các giao dịch có sử dụng mã PIN, chịu trách nhiệm đối với giao dịch và chứng từ rút tiền mặt thực hiện tại máy ATM. Nếu làm mất thẻ, mất mã PIN, chủ thẻ phải thông báo ngay cho ngân hàng.
Video đang HOT
Theo Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng, trường hợp thẻ bị lợi dụng trước khi ngân hàng xử lý thông báo, thì khách hàng phải hoàn toàn chịu thiệt hại từ việc để thẻ bị lợi dụng gây ra.
Khách hàng sẽ phải chứng minh yếu tố lỗi thuộc về ngân hàng. Việc chứng minh là vô cùng khó khăn trong khi ngân hàng thường nghi vấn về việc khách hàng đã cố ý, hoặc vô ý làm lộ thông tin về thẻ hoặc khiến người khác có cơ hội sử dụng thẻ.
Khi phát hiện mất tiền, chủ tài khoản cần rà soát các mối quan hệ có khả năng lấy thẻ và giao dịch cũng như thu thập các thông tin liên quan đến tài khoản như tin nhắn, thông báo giao dịch.
Kể từ khi thông báo việc mất tiền trong tài khoản ATM đến ngân hàng, mất bao lâu để chủ thẻ nhận được kết quả thông báo nguyên nhân từ ngân hàng?
Để xác định việc mất tiền trong thẻ ATM thuộc về lỗi bảo mật của ngân hàng hay sơ suất của chủ thẻ, ngân hàng phải cần một khoảng thời gian điều tra nhất định.
Theo quy định trên, ngân hàng có quyền đê nghi khach hang chơ đơi ngân hang kiêm tra, xư ly. Thời gian làm việc không quá 10 ngày kê tư ngay nhân đươc thông bao của khách hàng, ngân hàng phải xác nhận việc đã xử lý thông báo nhận được.
Quá 10 ngay lam viêc ngân hàng vẫn chưa có kết quả thông báo đến khách hàng thì ngân hang đa vượt quá giới hạn pháp lý mà quy chế phát hành thẻ cho phép. Nếu muốn thêm thời gian để điều tra, xử lý xong vụ việc, ngân hàng phải liên hệ lại với khách hàng.
Khách hàng có khả năng lấy lại được 100% số tiền đã mất không, thưa luật sư?
Khách hàng luôn ở thế yếu trong việc khiếu nại đòi tiền từ ngân hàng. Khách hàng khiếu nại phải chứng minh được việc mất tiền là do lỗi của ngân hàng thì khi đó ngân hàng mới phải bồi thường 100% số tiền đã mất.
Thực tế, khách hàng thường mất tiền rồi mới thông báo cho ngân hàng xử lý. Trong khi đó, Quyết định số 20/2007 trên có quy định rõ là ngân hàng phải hoàn toàn chịu thiệt hại và bồi thường thiệt hại nếu đã xử lý khiếu nại từ chủ thẻ nhưng sau đó thẻ bị lợi dụng (mất tiền).
Giả sử, chủ thẻ cố tình lừa ngân hàng đưa thẻ cho người khác rút rồi sau đó khiếu nại ngân hàng. Nếu bị phát hiện thì họ sẽ bị xử lý như thế nào?
Khi đó rõ ràng chủ thẻ đã có hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của ngân hàng.
Tùy từng trường hợp và tùy tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ việc và số tiền bị chiếm đoạt mà chủ thẻ có thể bị ngân hàng yêu cầu hoàn lại số tiền, bị phong tỏa tài khoản và thẻ.
Nếu nghiêm trọng, chủ thẻ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mức xử phạt đối với tội danh này là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, thậm chí là chung thân nếu chiếm đoạt từ 500 triệu đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Theo Danviet
Hợp đồng thiếu chủ thể giao kết: Tòa vẫn tuyên bấp chấp pháp luật?
Mặc dù đại diện Viện kiểm sát cùng cấp đã chỉ ra những sai phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung của Tòa án cấp sơ thẩm thế nhưng, TAND tỉnh Hà Giang vẫn tuyên án một cách đầy khó hiểu.
Câu chuyện về tính hợp pháp của hợp đồng thế chấp liên quan đến tài sản chung của Hộ gia đình dưới đây sẽ khiến nhiều ngỡ ngàng về cách áp dụng pháp luật của Tòa án. Bởi lẽ, lâu nay nhiều người vẫn nghĩ tài sản chung của Hộ gia đình có giá trị lớn sẽ phải do các thành viên đủ năng lực hành vi dân sự đồng ý thì mới được giao dịch.
Ngày 22/4/2016 TAND tỉnh Hà Giang đưa vụ án kinh doanh thương mại, tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa một bên là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) chi nhánh Hà Giang một bên vay tài sản và người thứ ba (là người dùng tài sản bảo đảm thế chấp để bảo lãnh cho khoản vay).
Tại bản án cấp sơ thẩm, TAND Thành Phố Hà Giang đã buộc người vay tài sản phải trả nợ cho Ngân hàng Agribank. Đồng thời, buộc bên thế chấp (bảo lãnh) tài sản cho bên vay phải bị xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên vay không thể thanh toán khoản nợ.
Thế chấp quyền sử dụng đất của Hộ gia đình phải được tất cả các thành viên đủ năng lực hành vi dân sự đồng ý (ảnh minh họa).
Điều đáng nói, tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của Hộ gia đình nhưng khi ký hợp đồng thế chấp lại chỉ có duy nhất hai thành viên trong gia đình ký, các thành viên khác không hề biết và không được tham gia.
Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án cũng đã không thông báo, triệu tập đầy đủ Người có quyền và nghĩa vụ liên quan để xem xét và đảm bảo quyền lợi cho họ.
Chính vì vậy, tại phiên tòa cấp Phúc Thẩm, đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang đã chỉ rõ những sai phạm tố tụng nghiêm trọng liên quan đến việc không triệu tập Người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, có những phân tích, khẳng định hợp đồng thế chấp quyền sử dụng giữa bên có tài sản bảo đảm và Ngân hàng Agribank là không tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật dân sự 2005 và quy định của Luật đất đai 2003.
Trong phần phân tích của mình, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang cho rằng, giao dịch được thực hiện vào năm 2012 khi luật đất đai 2003 vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, căn cứ vào Điều 146, Nghị định 181/2004NĐ/CP hướng dẫn thi hành luật đất đai 2003 thì: Thế chấp quyền sử dụng đất của Hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong Hộ gia đình thống nhất và kí tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần bản án có liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm để chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Tuy nhiên, không hiểu vì sao, bất chấp những nhận định có căn cứ pháp luật trên của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử TAND tỉnh Hà Giang vẫn khăng khăng cho rằng: Cấp sơ thẩm có vi phạm tố tụng nhưng không làm thay đổi đến bản chất của vụ án. Do đó, bác kháng cáo của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Bản án của TAND tỉnh Hà Giang khiến rất nhiều Hộ gia đình hoang mang khi mà tài sản chung của gia đình có thể định đoạt bởi chủ Hộ hoặc thành viên khác mà không cần sự đồng ý của tất cả thành viên gia đình. Điều này vô hình chung làm tê liệt các quy định về chế định Hộ gia đình của Bộ luật dân sự và đi ngược với quy định của Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn.
Dễ tạo tiền lệ xấu "Theo Điều 108 của Bộ luật dân sự 2005 thì tài sản là quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình. Và Điều 109 của Bộ luật này đã ghi nhận: Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của Hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý. Việc Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang tuyên án như vậy là trái với quy định pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên trong Hộ gia đình. Bản án này sẽ tạo tiền lệ xấu trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của gia đình" Luật sư Nguyễn Văn Đạt, Đoàn luật sư TP. Hà Nội Quan trọng đó có phải là tài sản chung Việc ai đóng góp như thế nào vào khối tài sản chung của hộ gia đình chỉ có giá trị làm căn cứ khi tài sản đó được đem ra chia. Còn khi giao dịch liên quan đến thế chấp, bảo lãnh thì quyền của các thành viên, chủ thể tham gia giao dịch là như nhau. Tài sản đúng tên Hộ gia đình thì các thành viên đều phải đồng ý thì mới có quyền giao dịch chứ không có nghĩa là ai đóng góp nhiều thì có quyền giao dịch. Việc quy định tài sản chung của hộ gia đình phải có sự đồng ý của các thành viên đủ 15 tuổi trở lên nhằm bảo đảm những tài sản có giá trị lớn tồn tại giúp duy trì cuộc sống ổn định của gia đình. Chẳng hạn, bố mẹ là người đóng góp chính cho tài sản chung có giá trị lớn của gia đình. Nhưng không thể tự ý định đoạt quyền sử dụng đất nếu con đã đủ 15 tuổi. Nếu cho phép định đoạt kiểu này thì đứa con sẽ ra đường ở hay sao? Nhất định, phải có sự đồng ý của con. Thạc sĩ luật học, Nguyễn Thị Hằng (Hà Nội)
Nhất Phiến - Băng Tâm
Theo_Người Đưa Tin
Cầm hung khí đuổi theo người khác không được có bị truy cứu hình sự? Vi phạm pháp luật là hành vi trái luật và có lỗi do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện làm xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hỏi: Trong khi tôi không có mặt ở nhà thì có một nhóm người (khoảng 30 người) xông vào nhà đập phá. Khi nghe tin, tôi và...