Nhìn lại ‘lịch sử’ phong hàm giáo sư ở Việt Nam
Thực hiện kết luận của Thường trực Chính phủ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư (GS) Nhà nước và Hội đồng Chức danh GS Nhà nước đã nghiêm túc rút kinh nghiệm sâu sắc vì còn có hồ sơ ứng viên chưa đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn, cần xác minh thêm trong đợt xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2017.
ảnh minh họa
Xin rút kinh nghiệm sâu sắc!
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Hội đồng chức danh Giáo sư (GS) Nhà nước rà soát lại danh sách ứng viên, Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ – Chủ tịch Hội đồng Chức danh GS nhà nước đã giao Thanh tra Bộ chủ trì xác minh làm rõ.
Ngày 6/3 vừa qua, trong danh sách mới chỉ còn 74 người được công nhận đạt tiêu chuẩn GS, 1.057 người đạt chuẩn PGS.
Như vậy, 95 người không còn tên trong danh sách mới. Trong số đó, có nhiều cán bộ quản lý mà dư luận cho rằng không cần thiết phải có học hàm như ứng viên GS Nguyễn Thị Kim Tiến – Bộ trưởng Bộ Y tế, ứng viên GS Lê Quân – Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, ứng viên PGS Trương Xuân Cừ – Phó trưởng Ban chỉ đạo Tây Bắc, ứng viên PGS Hà Anh Đức – thư ký Bộ trưởng Bộ Y tế, ứng viên PGS Nguyễn Hùng Long – Phó Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), ứng viên PGS Lê Quang Minh – Giám đốc Sở Y tế Hà Nam, ứng viên PGS Trịnh Thanh Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành Kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học và công nghệ)…
Có hay không việc “chạy nước rút”?
Bộ GD&ĐT cũng cho biết đang khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định thay thế Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS ban hành kèm theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008 và Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg ngày 27/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ để áp dụng ngay từ đợt xét công nhận mới.
Mổ xẻ việc số lượng GS, PGS đột biến trong năm nay, dư luận cho rằng đó là kết quả của quá trình các ứng viên “chạy nước rút” trước khi dự thảo quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS mà Bộ GD&ĐT lấy ý kiến gần 1 năm nay chính thức được ban hành.
Theo dự thảo này, tiêu chuẩn để được công nhận GS, PGS sẽ nâng lên rất cao và sẽ rất ít người có thể đạt được các tiêu chuẩn đó.
Cụ thể, các GS, PGS phải sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn (đã học tập, nghiên cứu toàn thời gian ở nước ngoài và được cấp bằng đại học, bằng thạc sĩ hoặc bằng tiến sĩ của cơ sở giáo dục ĐH sử dụng một trong các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc trong đào tạo.
Video đang HOT
Có chứng chỉ TOEFL IBT điểm tối thiểu 56 hoặc IELTS điểm tối thiểu 5.5. Từ năm 2018-2020, tăng thêm 5 điểm mỗi năm trên thang điểm TOEFL IBT và tăng thêm 0.5 điểm mỗi năm trên thang điểm IELTS). Ngoài ra, các ứng viên chức danh GS, PGS phải có công bố quốc tế.
Nghĩa “giáo sư” từng chỉ “người dạy học”
Trước tiên, xin được nói về cách hiểu danh từ “giáo sư” trong tiếng Việt (dẫn theo nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công):
1.Đại Nam Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của-xuất bản 1895): “Giáo sư: Thầy dạy học, dạy đạo lý.”
2.Việt Nam tự điển (Hội khai trí tiến đức-xuất bản 1931): “Giáo sư: thầy dạy học.”
3.Hán Việt từ điển (Đào Duy Anh-xuất bản 1932): “Giáo sư: Thầy dạy học (professeur, meitre)
Như vậy, các sách từ điển (1), (2), (3) xuất bản trước 1945 đều thống nhất: “Giáo sư” có nghĩa chung là thầy dạy học. Tuy nhiên, cũng là “thầy dạy học” nhưng trong thực tế có sự phân biệt: thầy dạy từ Trung học (đệ nhất niên đến đệ tứ niên) Tú tài (bán phần 2 năm và toàn phần 3 năm) trở lên mới được gọi là “giáo sư”.
Riêng thầy dạy cấp Tiểu học chỉ gọi là “hương sư” (thầy giáo dạy trường làng). Sau khi Nhà nước phong hàm giáo sư đợt đầu tiên (1956), danh từ “giáo sư” không còn và không thể được hiểu, được dùng theo nghĩa duy nhất trước đây là “thầy dạy học” nữa.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên-xuất bản 1988) đã đưa ra nghĩa mới của “giáo sư” để phân biệt với cách hiểu cũ như sau:
-”Giáo sư: 1.Học hàm cao nhất phong cho cán bộ có trình độ cao trong giảng dạy, nghiên cứu và phát triển khoa học: giáo sư sử học; được phong hàm giáo sư. 2.Người được nhận hàm giáo sư: vị giáo sư; mời giáo sư lên phát biểu. 3 [cũ] người dạy ở trường trung học hay trường đại học thời trước.”
-Từ điển từ và ngữ Hán Việt (GS Nguyễn Lân-xb 1988): “Giáo sư (giáo:dạy bảo; sư: thầy giáo) 1. Cán bộ giảng dạy cao cấp ở trường đại học: Một giáo sư nổi tiếng về những công trình nghiên cứu của mình. 2. Người dạy bảo: Thi đua ái quốc là trường đào tạo cán bộ rất rộng lớn mà giáo sư chính là quần chúng (Trường Chinh)
-Từ điển từ và ngữ Việt Nam (GS Nguyễn Lân-xb 2003, tái bản 2006): “Giáo sư: danh từ (Hán: sư: thầy) Cán bộ giảng dạy cao cấp ở trường đại học: Một giáo sư nổi tiếng về những công trình nghiên cứu của mình”.
Cần người xứng đáng chứ không phải danh xưng cho “oai”
Như vậy, từ 1 từ chỉ người “dạy học”, “dạy đạo lý” đơn thuần, cùng với những chuyển biến của xã hội, giáo sư đã trở thành một “danh vị” đứng đầu về nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Đương nhiên đi liền với nó không chỉ có lợi mà còn có danh.
Đợt phong giáo sư đầu tiên ở nước ta là vào ngày 11/9/1956, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 162/CP về việc phong hàm GS, PGS cho 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu. Sau đợt phong hàm GS đầu tiên, Chính phủ đã tổ chức xét và công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư nhiều đợt vào các năm 1980, 1984, 1988, 1991 và 1996. Trong các đợt này, gần 4.000 nhà giáo và nhà khoa học đã được phong hàm GS, PGS.
Về mặt cơ sở pháp lý, ngày 11/9/1976, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 162-CP của về hệ thống chức vụ khoa học và tiêu chuẩn các chức vụ khoa học trong lĩnh vực công tác giảng dạy đại học và công tác nghiên cứu khoa học; Tiếp đó là Quyết định số 271-CP ngày 1/10/1977 của Hội đồng Chính phủ về việc công nhận chức vụ Giáo sư và Phó Giáo sư trong lĩnh vực giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học; Nghị định số 153-HĐBT, ngày 22/9/1989 của Hội đồng Bộ trưởng, về việc thành lập Hội đồng xét duyệt học vị và chức danh khoa học Nhà nước; Nghị định số 21/CP, ngày 4/3/1995, của Chính phủ, về việc thành lập Hội đồng Học hàm Nhà nước; Nghị định số 20/2001/NĐ-CP, Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg, ngày 31/12/2008.
Việc công nhận và tiêu chuẩn chức danh GS, PGS như thế nào còn cần bàn thêm. Tuy nhiên đều người dân mong mỏng, kỳ vọng là, những GS, PGS Việt Nam phải là những người có thực tài, đóng góp thiết thực cho dân, cho nước, chứ không chỉ là 1 danh xưng cho ai đó “oai”.
Nói thêm về vấn đề này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết, Thủ tướng luôn quan tâm đến chất lượng nhà khoa học Việt Nam. Khi dư luận có ý kiến về việc đào tạo đội ngũ tiến sĩ, GS, Thủ tướng đã có yêu cầu chấn chỉnh ngay, rà soát nghiêm túc. Ngay cả GS có báo cáo giảng dạy thì giảng ở đâu, lúc nào, có hợp đồng giảng dạy không? Ngoại ngữ đạt trình độ nào, có giao tiếp được không?…
Theo Phapluatvn.vn
Vì sao GS, PGS ngành Khoa học xã hội ít công bố quốc tế hơn?
GS.TS Vũ Dũng - Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Tâm lý học - đã có những trao đổi liên quan đến số lượng bài báo công bố quốc tế trong đợt xét công nhận chức danh GS, PGS năm 2017.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ, Tổng Thư ký HĐCDGS Nhà nước Trần Văn Nhung trao chứng nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016
Theo thống kê của Văn phòng Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước, năm 2017 số ứng viên GS, PGS có số lượng bài báo công bố quốc tế tăng hơn nhiều so với những năm trước, trong đó có những bài đăng trên các tạp chí ISI và Scopus.
Như vậy, các nhà giáo của chúng ta ngày càng có nhiều bài công bố trên các tạp chí quốc tế hơn. Đây là một biểu hiện của sự hội nhập của khoa học Việt Nam với khoa học quốc tế. Tuy vậy, các ứng viên các ngành khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ có số lượng các bài báo quốc tế cao hơn các ứng viên ngành khoa học xã hội. Vấn đề này nên được hiểu như thế nào ?
Việc công bố quốc tế là rất cần thiết, đặc biệt trong xu thể hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với các quốc gia khu vực và thế giới hiện nay. Song, bài báo đó trước hết phải phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
GS Vũ Dũng
Trả lời câu hỏi này, GS Vũ Dũng cho rằng: việc công bố một bài báo khoa học trên tạp chí quốc tế hay tạp chí quốc gia trước hết phải xem mục đích mà bài báo đó hướng tới.
Việc công bố quốc tế là rất cần thiết, đặc biệt trong xu thể hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với các quốc gia khu vực và thế giới hiện nay. Song, bài báo đó trước hết phải phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc công bố các bài báo khoa học có chất lượng khoa học tốt, phục vụ thiết thực cho sự phát triển của Việt Nam thì bài báo đó dù đăng ở các tạp chí quốc gia vẫn cần được đ.ánh giá, ghi nhận và tôn trọng.
Tại sao các bài báo công bố trên các tạp chí ISI và Scopus lại tập trung nhiều hơn vào một số ngành, mà cụ thể là các ngành khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ? Theo GS Vũ Dũng, điều này không khó để lý giải.
Vì các ngành khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ ít liên quan đến vấn đề chính trị nhạy cảm, trong khi đó nhiều ngành khoa học xã hội lại liên quan đến các vấn đề chính trị nhạy cảm mà các lực lượng bên ngoài có thể lợi dụng để chống đối chung ta, có thể ảnh hưởng xấu đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Chẳng hạn, như ngành Quốc phòng, An ninh, Chính trị học, Tôn giáo học, Dân tộc học, một số lĩnh vực của Kinh tế học, Tâm lý học, Ngôn ngữ, Ngoại giao...
Việc công bố các bài báo của các ngành này trên các tạp chí quốc tế cần phải suy nghĩ, cân nhắc, thận trọng để vừa đảm bảo tính khoa học, vừa không tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Đây là một bài toán không đơn giản. Việc một tỷ lệ đáng kể các ứng viên không có công bố quốc chủ yếu rơi vào các ngành khoa học này.
"Cách đây không lâu, một người ở Cục An toàn thực phẩm kể cho tôi nghe câu chuyện: Có một bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín về vấn đề vấn đề thiếu an toàn trong sản xuất thực phẩm ở nước ta, lập tức một số nước ngừng ngay nhập sản phẩm của nước ta, gây cho chúng ta thiệt hại lớn về kinh tế. Sau khi tìm hiểu ra mới biết họ dựa vào kết quả nghiên cứu của bài báo này. Đây là một minh chứng về hậu quả tiêu cực của một công bố quốc tế" - GS Vũ Dũng đưa ví dụ.
Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Tâm lý học cũng cho biết thêm: Việc công bố quốc tế có những yêu cầu rất khắt khe. Để công bố được một bài báo quốc tế phải mất từ 1 - 2 năm. Mặt khác, nhiều tạp chí quốc tế muốn đăng bài phải đóng một khoản lệ phí đáng kể. Đây cũng là vấn đề khó khăn đối với nhiều nhà khoa học, nhà giáo, đặc biệt là các nhà khoa học và nhà giáo trẻ.
"Đăng một bài báo trên tạp chí quốc tế là vấn đề không đơn giản, không chỉ thuần túy là vấn đề học thuật, vấn đề hội nhập, mà điều quan trọng hơn là nó không được phương hại đến lợi ích của dân tộc, quốc gia. Một bài báo dù công bố ở tạp chí nào mà nó phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì rất đáng được ghi nhận và tôn trọng".
Theo Giaoducthoidai.vn
CTHĐ chức danh GS không nhất thiết là Bộ trưởng Hiện có nhiều ý kiến tranh luận xung quanh việc phong chức danh GS, PGS năm 2017, tiêu chí "kỳ lạ" hoặc Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước có nhất thiết phải là Bộ trưởng bộ GD&ĐT. Bàn về vấn đề này, PV có cuộc trao đổi với một số chuyên gia có tâm huyết với ngành giáo dục....