Nguy cơ mắc COVID-19 ở trẻ em và người lớn có khác nhau?
Tạp chí Nhi khoa JAMA Pediatrics (thuộc Hiệp hội Y khoa Mỹ) đã công bố về khả năng nhiễm COVID-19 của trẻ em so với người lớn, sau khi công ty Pfizer và BioNTech chính thức yêu cầu Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ cấp phép sử dụng khẩn cấp vaccine COVID-19, với liều lượng nhỏ hơn, cho trẻ em từ 5-11 tuổi.
Mới đây, nghiên cứu về nguy cơ mắc COVID-19 ở trẻ em được thực hiện từ tháng 9/2020 đến tháng 4/2021, bao gồm dữ liệu về 1.236 người từ 310 gia đình có từ 1 con trở lên ở New York, và một số quận nhất định ở Utah, đã được công bố trên tạp chí Nhi khoa JAMA Pediatrics (thuộc Hiệp hội Y khoa Mỹ),
Kết quả nghiên cứu cho thấy, người lớn và trẻ em tại 2 thành phố Utah và New York (Mỹ) đều có nguy cơ nhiễm virus SARS-CoV-2. Nhưng trẻ em chỉ có triệu chứng trong khoảng một nửa thời gian mắc bệnh.
Tuy nhiên, trẻ em có nguy cơ mắc COVID-19 tương đương như người lớn.
Theo PGS.TS Flor Munoz, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm nhi khoa tại Bệnh viện Nhi Texas, nghiên cứu chứng minh, trẻ em ở mọi lứa tuổi bao gồm cả trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi đều có nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 tương tự so với người lớn. Đồng thời, những phát hiện mới cần được xem xét trong các nỗ lực kiểm soát đại dịch COVID-19, cũng như để nghiên cứu vaccine và phương pháp điều trị.
Ngoài ra, TS Fatimah Dawood thuộc Trung tâm ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh (CDC) Mỹ cùng các đồng nghiệp đã phân tích tỷ lệ mắc COVID-19 đã phát hiện ra rằng, trong các gia đình có ít nhất 1 người mắc bệnh thì nguy cơ lây nhiễm trung bình trong gia đình là 52%.
Khi phân tích tỷ lệ mắc bệnh theo nhóm tuổi, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện, tỷ lệ mắc COVID-19 theo độ tuổi là tương đồng. Cụ thể, trong 1.000 người có khoảng 6,3 trẻ em dưới 4 tuổi mắc COVID-19; 4,4 trẻ từ 5-11 tuổi; 6,0 trẻ em từ 12-17 tuổi; và 5,1 ca là người lớn.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện 52% trẻ em dưới 4 tuổi mắc bệnh nhưng không có triệu chứng; tỷ lệ này là 50% trong nhóm 5-11 tuổi; 45% trong nhóm 12-17 tuổi. Nhưng chỉ ở 12% người lớn mắc COVID-19 là không có triệu chứng.
Các nhà nghiên cứu lưu ý, một số triệu chứng bệnh ở trẻ nhỏ có thể đã bị bỏ sót vì dữ liệu được thu thập thông qua người lớn chăm sóc, thay vì lấy thông tin trực tiếp từ trẻ nhỏ.
Nghiên cứu đăng trên tạp chí Nhi khoa JAMA Pediatrics nêu rõ, một phần lớn các trường hợp nhiễm virus SARS-CoV-2 ở trẻ em không có triệu chứng và có thể sẽ không được phát hiện nếu không thực hiện xét nghiệm. Trong khi, việc những người trưởng thành có triệu chứng khi mắc COVID-19 lại là một công cụ hữu ích để điều trị và ngăn ngừa virus phát tán.
Nghiên cứu mới được đăng trên Hiệp hội Y khoa Mỹ đã bổ sung thêm bằng chứng, trẻ em và thanh thiếu niên nói chung an toàn hơn trước virus SARS-CoV-2 so với người trưởng thành hay các trường hợp có bệnh nền. Trẻ em và thanh thiếu niên cũng ít có nguy cơ bị biến chứng nghiêm trọng hoặc tử vong khi mắc COVID-19.
Bệnh thủy đậu không chừa một ai
Bệnh thủy đậu thường xảy ra ở người lớn, trẻ em; nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí tử vong.
Video đang HOT
Theo Bác sĩ Trương Hữu Khanh, nguyên Trưởng khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi Đồng I (TP HCM), Cố vấn chuyên môn Trung tâm Tiêm chủng cho trẻ em và người lớn VNVC, bất cứ ai cũng có khả năng nhiễm virus gây bệnh thủy đậu, nhất là trẻ em. Đối với người lớn, tỷ lệ mắc thủy đậu thấp hơn nhưng vẫn có nhiều ca biến chứng nặng, thậm chí tử vong do không có kiến thức phòng ngừa và điều trị.
Thủy đậu bội nhiễm là hiện tượng nốt thủy đậu mưng mủ, ngứa, đau và lâu lành, có thể dẫn đến hoại tử, lở loét da, gây viêm thanh quản, viêm tai, viêm phổi, nhiễm khuẩn máu... Khi những nốt thủy đậu này lặn đi cũng rất dễ để lại sẹo, khó phục hồi.
Triệu chứng, dấu hiệu nhận biết bệnh thủy đậu
Bác sĩ Khanh chia sẻ thêm, virus gây bệnh thủy đậu (Varicella Zoster) chủ yếu lây lan qua đường hô hấp. Đa số trường hợp người khỏe mạnh nhiễm thủy đậu là do tiếp xúc với người bệnh thông qua không khí như hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân ho, hắt hơi, hay tiếp xúc chất dịch từ mụn nước, vật dụng cá nhân.
Varicella Zoster xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường hô hấp trên, rồi nhân lên tại chỗ gây nhiễm virus huyết tiên phát. Sau khi gây nhiễm virus huyết tiên phát, virus tiếp tục nhân lên trong tế bào hệ thống liên võng nội mô gây nhiễm virus huyết thứ phát, lan tràn đến da và niêm mạc. Varicella Zoster có khả năng "ngủ lại" trong cơ thể sau lần nhiễm bệnh đầu tiên và sẵn sàng hoạt động trở lại ngay khi có điều kiện thuận lợi.
Virus Varicella Zoster gây bệnh thủy đậu ở người lớn, trẻ nhỏ.
Thủy đậu thường phát triển mạnh vào mùa đông và đầu xuân. Thời gian ủ bệnh thường 2-3 tuần, thông thường 14-16 ngày. Sau đó, bệnh bắt đầu tiến vào giai đoạn khởi phát với những biểu hiện như sốt, đau đầu, đau cơ, phát ban... Trong một số trường hợp, nhất là ở trẻ em không có dấu hiệu bị thủy đậu rõ ràng.
Ở giai đoạn toàn phát, triệu chứng của bệnh thường là sốt cao, đau đầu, chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, đau cơ. Những mụn nước với đường kính 1-3 mm xuất hiện toàn thân thậm chí xuất hiện cả trong niêm mạc miệng, gây ngứa rát, khó chịu cho người bệnh. Trong những trường hợp nặng, mụn nước to hơn; khi nhiễm trùng có màu đục do chứa mủ.
Nếu không có biến chứng, giai đoạn hồi phục bệnh thường sau 7-10 ngày phát bệnh. Các vết mụn nước khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước. Trong giai đoạn này, vệ sinh cơ thể cần chú trọng, tránh để nhiễm trùng vết thương dẫn đến sẹo. Người bệnh có thể sử dụng kết hợp các thuốc trị sẹo và trị thâm theo chỉ định của bác sĩ.
Các biến chứng nguy hiểm của bệnh thủy đậu
Nhiều người vẫn nghĩ thủy đậu chỉ là bệnh ngoài da nên không nguy hiểm, tuy nhiên theo bác sĩ Trương Hữu Khanh, nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng cách, thủy đậu sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm.
Nhiễm trùng da: là biến chứng nhẹ, không gây nguy hiểm nhưng nếu bị nhiễm trùng, các bọng nước sẽ to, có mủ, lâu khỏi và có thể để lại sẹo.
Nhiễm khuẩn huyết: vi khuẩn xâm nhập từ mụn nước vào máu gây nhiễm trùng máu.
Viêm phổi, viêm não, viêm tiểu não... : là các biến chứng gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc có thể để lại di chứng lâu dài cho người bệnh.
Zona : ngay cả sau khi bệnh nhân đã khỏi bệnh, virus thủy đậu có thể vẫn còn tồn tại trong các hạch thần kinh dưới dạng bất hoạt (dạng ngủ). Thậm chí 10, 20, hay 30 năm sau đó, khi gặp được các điều kiện thuận tiện như sức đề kháng cơ thể yếu hoặc mắc một số bệnh nhất định..., virus gây bệnh thuỷ đậu sẽ tái hoạt động trở lại và là một yếu tố gây bệnh zona (hay còn gọi là bệnh giời leo).
Bệnh thủy đậu nguy hiểm với phụ nữ có thai. Bác sĩ Trương Hữu Khanh lưu ý, phụ nữ mang thai (nhất là trong khoảng 8-20 tuần) mắc thủy đậu có thể dẫn đến sẩy thai hoặc để lại dị tật cho thai nhi (dị dạng ở sọ, đa dị tật ở tim, trẻ sơ sinh mắc chứng đầu nhỏ...). Trẻ sơ sinh mắc thủy đậu lây truyền từ mẹ diễn biến cũng rất nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong lên đến 30%.
Tiêm vaccine phòng ngừa bệnh thủy đậu
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tiêm vaccine là cách phòng bệnh hiệu quả. Có khoảng 88-98% người đã tiêm phòng vaccine sẽ tránh được căn bệnh này.
Bác sĩ Trương Hữu Khanh cho biết, tiêm vaccine phòng bệnh thủy đậu trước hoặc sau mùa dịch cũng đóng một phần quan trọng, giúp mọi người có kháng thể thích nghi trong cơ thể, chuẩn bị sẵn sàng cho đợt dịch thủy đậu có thể xảy đến. Người lớn, trẻ em cần tiêm phòng thủy đậu trước mùa dịch ít nhất một tháng. Tại Việt Nam, mùa bệnh thủy đậu thường xuất hiện vào tháng 2-6 hằng năm.
Chủ động tiêm phòng là biện pháp an toàn và hiệu quả giúp ngừa bệnh. Tiêm chủng cho những người trong gia đình, người chăm sóc trẻ và những người thường xuyên tiếp xúc gần là cách bảo vệ những người có nguy cơ mắc bệnh cao nhưng không thể tiêm chủng như trẻ sơ sinh không có miễn dịch, người suy giảm miễn dịch tránh bị phơi nhiễm...
Theo khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ, vaccine phòng bệnh thủy đậu được khuyến cáo như sau:
Đối với vaccine Varivax (Mỹ) và Varicella (Hàn Quốc):
Trẻ từ 12 tháng tuổi đến 12 tuổi tiêm 2 mũi:
- Mũi 1: Là mũi tiêm lần đầu tiên
- Mũi 2: Sau mũi 1 là 3 tháng hoặc khuyến cáo mũi 2 lúc trẻ 4-6 tuổi
Khuyến cáo của Ủy ban thực hành tiêm chủng Mỹ (ACIP) để có miễn dịch tốt nhất và phòng tái nhiễm sau khi tiêm một mũi vaccine thủy đậu.
Trẻ từ 13 tuổi trở lên và người lớn: Tiêm 2 mũi, mũi 2 cách mũi 1 ít nhất 1 tháng
vaccine Varivax (Mỹ) và Varicella (Hàn Quốc) phòng bệnh thủy đậu.
Đối với vaccine Varilrix (Bỉ):
Trẻ em từ 9 tháng tuổi đến 12 tuổi:
Lịch tiêm 2 mũi:
- Mũi 1: Là mũi tiêm lần đầu tiên.
- Mũi 2: Sau mũi 1 ít nhất 3 tháng.
Trẻ từ 13 tuổi và người lớn:
Lịch tiêm 2 mũi:
- Mũi 1: là mũi tiêm lần đầu tiên.
- Mũi 2: sau mũi 1 ít nhất là 1 tháng (không tiêm trước 4 tuần trong bất cứ hoàn cảnh nào).
Thời điểm tốt nhất để uống sữa Sữa là đồ uống có nhiều chất dinh dưỡng tốt nhưng bạn cần để ý thời điểm uống và cách pha. Sữa giữ một vị trí quan trọng trong chế độ ăn uống của cả trẻ em và người lớn. Sữa được khuyến khích dành cho trẻ em trong những năm đầu đời để phát triển cơ thể. Người lớn thường được đề...