Người chết 15 năm trở về kể chuyện làm “đại ca”
Cứ nhắc đến nhóm của Hiệu, các chủ bãi vàng lại run như cầy sấy. Tuy nhiên, đại ca vang danh một thời cũng có ngày trở về không nguyên vẹn.
Bỏ nhà đi biệt tích từ năm 17 tuổi, không một lần nhắn tin về, gia đình Trần Văn Hiệu tưởng hắn đã chết. Một ngày, cả làng bàng hoàng khi thấy Hiệu trở về với bộ dạng đáng thương, tay cụt, mắt hỏng. Nghèo khó, túng quẫn, Hiệu vẫy vùng tìm cách tháo gỡ. Sau nhiều năm lao vào làm ăn, đến nay Trần Văn Hiệu đã thành tỷ phú từ nghề buôn bán, vận chuyển vật liệu xây dựng và vận tải hành khách.
Trùm giang hồ ngày nào đang trò chuyện với PV
Học võ để làm đại ca nhí
Trần Văn Hiệu (SN 1962, huyện Thanh Miện, Hải Dương) ngày nay nổi danh khắp mấy tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh… với cái tên Trần Cò gắn trên nhiều xe ô tô chở khách. Vậy nhưng mấy người biết được, Hiệu vốn là một tay giang hồ khét tiếng. Được biết, từ thuở nhỏ hắn đã lì lợm và đặc biệt mê võ. Hiệu thích xem phim kiếm hiệp, ngứa ngáy chân tay, đánh đấm suốt ngày. Một ngày kia, máu “yêng hùng” nổi lên, Hiệu ăn trộm tiền của bố mẹ đi tìm thầy học võ. Hắn tìm đến lò võ của một ông thầy ở Bắc Ninh bái sư. Ba năm trời ròng rã tuyệt nhiên hắn chẳng có tin tức về nhà. Chẳng biết, thu lượm được bao nhiêu “thành công lực”, năm 17 tuổi Hiệu ung dung về quê hương.
Có chút ít “bản lĩnh” võ nghệ, Hiệu ngày càng ngang ngạnh. Suốt ngày, hắn lang thang, tụ tập đám thanh niên đánh đấm, bày trò nghịch ngợm. Từ lúc đó, hắn đã tự coi mình là “hảo hán làng”, nhìn đám thanh niên choai choai cùng tuổi bằng “nửa con mắt”. Nhà nghèo, bố mẹ thấy con trai lớn không làm gì cứ nhong nhóng đi ra, đi vào, giắt lưng cồm cộm côn gậy, tính khí thì như đổ lửa càng thêm “ nóng” mắt. Những lần bị mắng cứ nhiều hơn nhưng Hiệu chẳng “bắt lời”. Lúc này, đã quá chán với sự tù túng, hắn bỏ nhà đi. Bố mẹ Hiệu cũng chỉ nghĩ đi đua đòi linh tinh nhưng sự đời lại đưa đẩy hắn bước chân vào tận mỏ đá đỏ Quỳ Châu – Nghệ An.
Những năm 80 của thế kỷ trước, người dân tứ xứ đổ về Quỳ Châu tìm cơ may đổi vận từ đá đỏ. Trần Văn Hiệu cũng theo dòng người tìm đến “đầu quân” cho một “đại ca” nơi rừng xanh núi đỏ. Hiệu kể lại: “Khi ấy tôi mới hiểu thế nào là rừng thiêng, nước độc. Nhiều người gục ngã, bỏ xác nơi rừng sâu không phải bị cướp thì cũng bị ngã nước. Thời kỳ đó, tôi đang sung sức nên may mắn vượt qua tất cả. Tôi cũng đã tạo ra nhiều “chiến công” cho “đại ca” và vô tình cũng tích luỹ “số má” cho bản thân mình”.
Tận mắt chứng kiến sự rẻ rúng của những viên đá, mà có thời người ta bảo quý hơn vàng và có người phải đổi cả tính mạng, Hiệu cũng thấy ngán sự đời. Tuy nhiên, hoạ may lắm mới có ai đó đào được viên đá quý và giá bán cũng chỉ được vài triệu đồng. Còn những chuyện đá đỏ bán được cả trăm triệu đồng chỉ là tin đồn nơi núi thẳm. Ngao ngán với đá đỏ, Hiệu bỏ nơi đầu tiên mình dấn thân giang hồ để đi tìm vùng đất mới để thoả chí vẫy vùng.
Những cuộc chiến giành lãnh địa
Trần Văn Hiệu không nhớ nổi mình đã tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh giành lãnh địa, tranh giành mỏ tốt. Cuộc chiến ở những nơi này, chân lý, lẽ phải dành cho kẻ mạnh. Thắng làm vua, thua làm giặc, tất cả sự phân chia đều do kẻ mạnh hơn định đoạt. Con người ở đây giẫm đạp lên nhau mà sống. Muốn tranh được đoạn mỏ tốt thì phải chiến đấu và muốn giữ được mỏ để khai thác cũng cần đến lực lượng đủ mạnh để giao tranh. Anh Hiệu kể lại: “Ngày ấy nhóm “thất hùng” (7 anh em giang hồ) chúng tôi làm mưa làm gió nhiều bãi vàng, mỏ thiếc. Tiếng tăm của chúng tôi làm nhiều chủ bưởng khác cũng phải khiếp sợ. Sự liều lĩnh, bất chấp sống chết khiến băng nhóm như những con mãnh hổ tung hoành giữa rừng mà chẳng biết sợ ai. Chúng tôi tự đặt ra “luật rừng” nơi mình “đóng trại”. Ngẫm lại bây giờ tôi cũng thấy ớn”.
Một ngày tháng 2/1995, tiết trời vẫn còn se lạnh. Rừng sâu Thái Nguyên, nơi có bãi thiếc vẫn còn yên lắng. Sương chiều vắt trên ngọn cây, che đi ánh nắng đầu mùa yếu ớt. Sau một ngày làm việc nơi bãi thiếc, chủ chòm Hiệu xuống suối tắm như thường ngày. Một không gian yên tĩnh đến lạ thường. Bỗng… ầm! Tiếng lựu đạn vang lên, Hiệu bị thương nặng. Tai nạn đổ xuống, lúc ấy đám đàn em và thợ đãi thiếc nói là sập hầm. Tuy nhiên, nói chuyện với tôi, anh Hiệu kể thật nội tình: “Ngày ấy nhóm tôi mạnh nên nhiều bọn đố kỵ lắm. Rồi từ những mâu thuẫn do tranh chấp lãnh địa, tranh chấp mỏ, một nhóm khác đã thuê bọn nghiện dùng lựu đạn tấn công khi tôi đi tắm dưới suối. Tôi thành ra như hôm nay là từ vụ tai nạn đó”.
Tai nạn đã chấm dứt những ngày tháng vẫy vùng của Trần Văn Hiệu. Anh được vợ chồng người bạn đưa về quê nơi có mỏ than Núi Hồng ở Đại Từ – Thái Nguyên cưu mang. Trần Văn Hiệu ẩn mình thật sâu. Anh quên tất cả, quên ngay chính bản thân mình. Còn ở quê nhà, sau nhiều năm không có tin tức gì của con trai, gia đình tưởng Hiệu đã chết mất xác nơi thâm sơn cùng cốc. Vậy là, hàng năm cứ nhớ ngày Trần Văn Hiệu ra đi, bố mẹ lại thắp hương, sửa soạn mâm cơm làm giỗ cho anh. Có đến 5 năm làm giỗ con, bao lần người mẹ thương con khóc khô nước mắt, bao lần người bố tự trách mình đã nặng lời với con…
T ự tung tự tác ở 15 bãi vàng Trong bộ áo nâu sòng, dáng ngồi thoải mái, giọng nói nhỏ nhẹ khiến tôi không thể hình dung mình đang ngồi đối diện với một tay giang hồ “có hạng” của nhiều bãi vàng những năm trước đây. Một tay đã cụt gần đến vai như để trả lại những ngày tháng làm trùm. Nắm chặt bàn tay còn ba ngón như nhớ đến thời “oanh liệt nơi rừng thẳm”, anh Hiệu kể: “Rời mỏ đá đỏ Quỳ Châu, tôi tìm đến vùng Lục Yên (Yên Bái) tìm đá quý, rồi lại tìm vàng nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn, bãi vàng Ma-nu, Khâu U (Cao Bằng), sau đó đến mỏ thiếc… Đôi chân tôi và các anh em trong nhóm đã đi không biết bao nhiêu rừng núi. Đâu có bưởng vàng, lò thiếc, mỏ đá quý là tôi tìm đến”. Được biết, với 10 năm ngang dọc, Hiệu đã đi khoảng 15 điểm bãi khác nhau.
Theo NDT
Video đang HOT
Cuộc đời hoàn lương của một "anh cả" khu ổ chuột
Lớn lên trong một hoàn cảnh đặc biệt, bố mẹ mất từ khi cậu mới lên 2 tuổi vì một tai nạn giao thông, Điền sống trong sự đùm bọc của mọi người xung quanh nhưng trong một xã hội phức tạp như tại khu chợ cậu sinh sống, Điền dần trở thành "anh cả" với một lượng đàn em khá hùng hậu. Cuộc đời Điền đã trải qua những "chuyến đi dài" để rồi sau đó kết thúc bằng một cuộc hoàn lương hoàn hảo.
"Đại ca" khu ổ chuột
Bố mẹ Điền đều cùng quê ở mảnh đất Quảng Bình chỉ có nắng và gió, vì kế sinh nhai nên sau khi cưới, hai vợ chồng cùng nhau di cư ra mảnh đất thành Vinh để làm ăn từ năm 1987, họ dựng một căn nhà ổ chuột ngay tại chợ Vinh và sống bằng nghề đạp xích lô, nhưng số phận đã cướp đi sự sống của họ.
Khi đang áp tải một chuyến hàng thì họ bị ôtô tông chết, để lại một đứa con trai mới lên hai bơ vơ không nơi nương tựa. Từ đó đứa bé được sống trong sự nuôi nấng, chăm sóc của mọi người xung quanh khu ổ chuột.
Họ cũng là những người lao động chân tay như đạp xích lô, bốc dỡ hàng nên cuộc sống cũng rất khó khăn, họ chỉ có thể chia nhau mỗi nhà nuôi ăn cậu bé tội nghiệp một bữa trong tuần. Nhưng cũng chỉ cần có thế, cậu bé vẫn lớn lên khỏe mạnh.
Lên 6 tuổi, Điền đã có thể tự tìm cái ăn để nuôi sống mình qua ngày nên cậu không cần đến sự giúp đỡ của những người hàng xóm tốt bụng nữa, cậu làm đủ mọi việc quanh khu chợ, miễn là có cái ăn và việc đó nằm trong tầm tay của cậu.
Được sự giúp đỡ của bố vợ nên giờ đây hai vợ chồng Điền đã có một tiệm may khá lớn trong thành phố. (Ảnh minh họa)
Nhưng việc kiếm được miếng ăn đủ no trong thời buổi đất chật người đông, người khôn của khó đâu phải dễ, không phải là một cậu bé lên 6 như cậu mà đến người lớn làm việc để tự nuôi bản thân cũng là khó rồi. Sống trong đói khát ở một môi trường chợ búa đã tôi luyện cho Điền trở nên lọc lõi, khôn ngoan để có thể duy trì sự sống cho mình.
Đến 12 tuổi, trong khi trẻ em cơ nhỡ đi dạt về đây kiếm ăn khá nhiều, tất cả đều là "lính mới" trong khi Điền nhẵn mặt ở khu vực này, nghiễm nhiên Điền trở thành lão làng trong đám trẻ kiếm ăn tại đây. Lúc này, người ta không thuê cậu làm những công việc nhẹ nhàng như trước nữa mà thay vào đó là những công việc nặng nhọc như bốc vác, vận chuyển hàng,...
Cuộc sống khó khăn, công việc không nhiều nên Điền đã tập hợp mấy đứa trẻ trong khu chợ cùng nhau hợp tác làm ăn, sáng kiến đó của Điền được bọn trẻ đồng ý và Điền được giao quản lý chung, từ đó bọn trẻ gọi Điền là "anh cả".
Tập hợp được sức mạnh liên quân, công việc làm ăn của nhóm trở nên dễ dàng hơn nhiều, bọn trẻ nhận được nhiều công việc béo bở hơn, những công việc mà trước đây người ta chỉ thuê người lớn có sức lực để làm thì nay với gần 20 người trong nhóm, những công việc đó trở nên khá dễ dàng.
Nhưng cuộc sống đâu dễ dàng như chúng nghĩ, khi bọn trẻ bắt đầu có cái ăn đủ no để cho chúng lao động trong ngày thì các thế lực khác bắt đầu kéo đến, những thế lực này đều là những nhóm trẻ lang thang như chúng từ các khu vực lân cận đến để giành giật những công việc chúng đang làm.
Quá bức xúc vì bị chiếm mất chỗ làm ăn, lại chứng kiến cảnh mấy đứa em cả ngày chưa có miếng gì vào bụng, Điền quyết định cùng bọn trẻ đến dạy cho đối thủ một bài học để lấy lại những gì đã từng thuộc về chúng.
Vì quân số đông hơn nên cuộc "hỗn chiến" kết thúc với sự áp đảo ngiêng về quân của Điền và bọn trẻ bên kia bỏ chạy toán loạn. Tối hôm đó Điền nằm nghĩ về hành động của mình lúc chiều, không biết cậu đã nghĩ những gì mà sáng hôm sau cậu nhờ mấy đứa em đi tìm bọn trẻ kia đến và chia cho bọn trẻ đó một nữa phần đất làm ăn.
Với hành động này của Điền, bọn trẻ kia không dám nhận nhưng xin Điền được gia nhập nhóm với sự nể phục "anh cả" được nâng lên một bậc. Từ đây, nhóm đã trở nên dồi dào nhân lực với quân số lên đến 36 người.
Ít năm sau, khi bọn trẻ ngày xưa đã bắt đầu trưởng thành, công việc bốc vác, vận chuyển như chúng đã dần thay thế bằng máy móc. Với sức lực và nhân lực có thừa, nhóm của Điền được các nhà hàng, khách sạn, quán bar thuê làm bảo vệ.
Dưới sự dẫn dắt của anh cả Điền, nhóm dần dần đã chuyển hẳn sang làm bảo kê và trở thành nhóm bảo kê lớn nhất tại khu vực này, chuyên đi xử lý các vụ gây hấn, đánh nhau, làm loạn tại các nhà hàng thuê nhóm bảo kê.
Cứ có vụ nào như thế là nhóm của Điền nhảy vào can thiệp, còn bình thường cả nhóm vẫn chia nhau đi làm bảo vệ khắp khu vực mà không làm hại đến ai cả nên nhóm cũng không có xích mích gì lớn với các nhóm khác bên ngoài.
Cuộc sống bây giờ đã sung túc hơn nhưng con người Điền vẫn không có gì thay đổi, vẫn điều hành nhóm một cách có tổ chức, quan tâm chăm sóc đến từng hoàn cảnh của các anh em.
Tuy hoạt động dưới hình thức như những băng nhóm xã hội đen chuyên đi bảo kê nhưng Điền và các anh em sống rất biết điều, có trên có dưới nên rất được lòng những người xung quanh, những vụ nào đáng ra tay xử lý là nhóm dằn mặt đến nơi đến chốn nhưng làm việc bao nhiêu năm Điền không bao giờ cho phép đàn em triệt đường sống ai bao giờ, chỉ xử lý đủ để họ biết điều hơn là đủ và luôn cho một con đường lùi.
Ngoài những công việc được thuê thì Điền vẫn ra tay giúp đỡ những người khác mà không lấy của họ một xu nên Điền và đàn em luôn được những băng nhóm khác và người dân nể phục.
Anh hùng không qua nổi ải mỹ nhân
Nhưng anh hùng rồi cũng phải dừng bước trước mỹ nhân. Hương - cô gái xinh đẹp con một đại gia xăng dầu thường xuyên lui tới các nhà hàng nơi Điền làm việc. Chứng kiến các hành động nghĩa hiệp của Điền hằng ngày, lại có một ngoại hình rất nam tính nên Hương đã đem lòng yêu Điền.
Lúc đầu Điền không hề biết gì nhưng sau một thời gian quen biết, Điền cũng nhận ra tình cảm của Hương dành cho mình. Trước vẻ đẹp và tính tình hiền hậu của Hương, Điền không có lý do gì để không đón nhận tình cảm đó cả.
Yêu nhau được gần 1 năm thì Hương quyết định đưa Điền về giới thiệu với gia đình, với hoàn cảnh và công việc đang làm thì không khó để bố Hương điều tra ra được Điền là ai, và tất nhiên là tình yêu của hai người bị gia đình Hương ngăn cấm một cách quyết liệt. Nghĩ mình bị bố mẹ Hương xem thường và không xứng đáng với Hương nên nhiều lần Điền dứt áo ra đi nhưng tình yêu của Hương đã níu Điền lại.
Tình yêu với Hương quá lớn, nhiều đêm thao thức Điền nghĩ cách để kiếm thật nhiều tiền để bố mẹ Hương không xem thường và đồng ý cho hai đứa đến với nhau. Nghĩ là làm, Điền bắt đầu liên hệ với các "đại lý" phân phối thuốc lắc và ma túy để bán lẻ cho khách trong các nhà hàng, khách sạn.
Điều đặc biệt trong phi vụ này là Điền không cho một người nào trong nhóm biết mà độc lập làm một mình để khỏi liên lụy đến các anh em và tất nhiên Hương cũng không hề biết gì.
Đi bán lẻ một thời gian thấy không biết làm đến bao giờ mới sánh được với gia đình nhà Hương, Điền quyết đình làm liều một phen khi đã liên hệ được nguồn hàng từ Lào. Nghĩ rằng đi vài chuyến như thế thì Điền có thể nghiễm nhiên đến xin gia đình Hương được tự do đi lại.
Sau chuyến đầu tiên thành công mỹ mãn và Điền có một món lãi khá lớn, Điền cũng không quên cho anh em mỗi người một ít để lo công việc cá nhân, mấy đứa em cũng phân vân về số tiền đó anh cả lấy từ đâu nhưng không đứa nào dám hỏi.
Sang tháng sau đó, Điền quyết định đi thêm một chuyến nữa nhưng khi đang vận chuyển hàng về thì Điền bị công an bắt ngay tại cửa khẩu, mọi hy vọng, mọi ước mơ xem như đã chấm dứt với Điền.
Khi biết tin Điền bị bắt, mọi người rất bất ngờ và không hiểu vì sao anh cả lại dại dột dính và "hàng trắng". Riêng Hương thì còn sụp đổ hơn khi đoán biết được vì tình yêu với cô mà Điền hành động như thế. Mang cái án lên đến 12 năm tù giam, Điền đã suy sụp nhiều những ngày trong trại, Hương và các anh em vẫn thường xuyên vào thăm Điền, mọi người hiểu được nỗi khổ tâm của Điền nên đã động viên Điền rất nhiều.
Còn Hương, cô nghĩ mình đang nợ Điền một món nợ đời nên đã thuyết phục Điền cố gắng cải tạo để sớm được ân xá, ra tù Hương sẽ cố gắng xin bố mẹ cho hai đứa được đến với nhau.
Cuộc hoàn lương của "anh cả"
Tuy được mọi người động viên và khích lệ lớn nhưng Điền không thể bắt Hương bỏ dở tuổi thanh xuân để chờ mình trong vô vọng như thế, Điền đã bảo Hương về tìm một người đàn ông khác xứng đáng hơn mình và bảo Hương đừng vào thăm nữa để anh khỏi bị dằn vì vặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt của Hương.
Nói là làm, thời gian sau đó mặc cho Hương vào thăm Điền vẫn không chịu gặp mặt nhưng với sự kiên trì và tình yêu của mình, Hương đã thuyết phục được Điền cố gắng cải tạo.
Với tình yêu quá lớn và sự quan tâm của Hương và các anh em luôn chờ ngày anh ra trại nên Điền đã cố gắng cải tạo rất nhiều, Điền đã có niềm tin hơn vào cuộc sống, vào một ngày được tự do. Tuy ở trong tù nhưng các anh em và Hương luôn báo cáo cho anh các công việc, cuộc sống hiện tại của mình.
Các anh em ở ngoài giờ đã không làm bảo kê nữa mà chỉ đơn thuần làm bảo vệ, giữ xe cho các công ty, nhà hàng nên họ có thể tự nuôi sống bản thân nhờ vào đồng lương ít ỏi đó, có một số thì đi học thêm một số nghề khác như thợ mộc, thợ hàn,...
Biết được cuộc sống của mọi người tốt như vậy Điền cũng mừng lắm, không có anh bên cạnh nhưng các em đã bản lĩnh hơn trong cuộc sống, không vì một phút túng quẫn mà dại dột sa vào vòng lao lý như mình.
Cải tạo được 9 năm thì Điền được đặc xá vào ngày 2/9 hằng năm, ngày ra tù, Hương và các anh em đã đến đông đủ trước cổng trại để đón Điền, quá xúc động và Điền đã khóc, anh khóc như một đứa trẻ bị bố mẹ cấm cửa nhiều ngày.
Mọi người cũng không thể không khóc khi lần đầu thấy anh cả mình rơi lệ, trong vòng tay của mọi người, Điền đã hứa sẽ làm lại tất cả và chăm sóc Hương suốt cuộc đời còn lại. Thời gian trong trại Điền cũng đã học được nghề may mặc, anh dự định sắp tới sẽ đi học thêm để nâng cao tay nghề và về mở một của hàng may mặc, mọi người vui vì dự định đó của anh cả.
Về nhà Hương trong sự e dè và hơi chút lo sợ nhưng trong thời gian Điền ở trại, Hương đã thuyết phục bố mẹ và kể cho bố mẹ nghe rất nhiều về Điền. Bố mẹ Hương đã có cái nhìn rất khác về Điền và đồng ý cho Hương và Điền kết duyên với nhau.
Được sự giúp đỡ của bố vợ nên giờ đây hai vợ chồng đã có một tiệm may khá lớn trong thành phố, hai vợ chồng đã có của ăn của để và đã xây được một căn nhà 3 tầng, giờ đây tình yêu của họ còn được gắn kết hơn nữa bằng một cu cậu mới 2 tuổi và họ đang sống rất hạnh phúc.
Theo Phunutoday
Ước mơ làm lại cuộc đời của những người lầm lạc Người muốn mở tiệm hớt tóc, kẻ mong trở thành tài xế hay đơn giản là có chút vốn buôn bán kinh doanh; nhiều phạm nhân trong trại giam An Phước (Bình Dương) mong cộng đồng rộng lượng giúp họ trở về với đời thường. "Tôi muốn trở thành tài xế, có công việc ổn định sau khi hoàn lương", anh Bùi Quang...