Muốn hoà nhịp vào cuộc CMCN 4.0, Việt Nam cần chú trọng tăng tỷ lệ nhập học ĐH
Điều đáng lo ngại là tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên năm 2020 là 24,1%. Tỷ lệ này vào quý IV năm 2021 là 26,1%, vào quý II năm 2022 là 26,2%.
Những con số trên đã cho thấy, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp.
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nói rằng, cả nhân lực lao động qua đào tạo dạy nghề và nhân lực lao động qua đào tạo đại học đều đang thiếu. Chúng ta phải phát triển mạnh cả hai nguồn nhân lực này.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Thưa ông, theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên năm 2020 là 24,1%. Tỷ lệ này vào quý IV năm 2021 là 26,1%, vào quý II năm 2022 là 26,2%. Ông có nhận xét gì về hoạt động đào tạo và cơ cấu nguồn nhân lực của chúng ta hiện nay?
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Số liệu này đã phản ánh thực tế giáo dục của Việt Nam hiện nay, Việt Nam đang chú trọng hơn việc phát triển giáo dục phổ thông mà chưa chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề, chất lượng cao sau phổ thông.
Chúng ta định hướng phân luồng mạnh từ sau trung học cơ sở, điều này đã được thể hiện qua các văn bản pháp quy như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học, Nghị quyết 29-NQ/TW, …
Tuy nhiên thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực của nước ta trong nhiều năm qua lại diễn ra hoàn toàn theo chiều hướng trái ngược.
Các báo cáo về giáo dục đào tạo và giáo dục nghề nghiệp của năm học 2019-2020 cũng cho thấy có 78% học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở được tuyển vào trung học phổ thông và chỉ có 15,6 % học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở được tuyển vào hệ trung cấp nghề.
Chúng ta được đánh giá là cung cấp giáo dục phổ thông có chất lượng cho người dân, nhưng chưa đạt được nhiều thành công trong giáo dục sau phổ thông. Lý do vì sau trung học phổ thông có nhiều hướng rẽ: Một bộ phận học sinh theo học giáo dục đại học, một bộ phận theo hướng học nghề, một bộ phận học trung cấp, sơ cấp (dạy nghề ngắn hạn), còn lại gia nhập thị trường lao động dù không qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Theo Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2019 của Tổng cục Thống kê, trong tổng số lực lượng lao động đang làm việc (55,76 triệu từ 15 tuổi trở lên) 77,2% không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, 3,7% qua dạy nghề, 4,7% trung cấp, 3,8% cao đẳng và 10,6% đại học.
Đến năm nay, số liệu mà Tổng cục thống kê đưa ra, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ cũng mới đạt 26,2%.
Video đang HOT
Nhìn vào tỷ lệ lực lượng lao động như thế thì làm sao chúng ta có thể hoàn thành được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến vào nền kinh tế tri thức, bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?
Vậy theo ông, đâu là nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp?
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Thứ nhất, hiện nay chúng ta chưa nhận thức đúng việc đảm bảo cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý để phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy nên hoạt động đào tạo cũng chưa thể đảm bảo.
Chúng ta vẫn định hướng dư luận rằng tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” đang diễn ra, để hạn chế số lượng học sinh theo học đại học, mở đường cho học sinh theo học nghề.
Nhưng thực tế không phải nhân lực lao động có trình độ đại học thừa. Cả nhân lực lao động qua đào tạo dạy nghề và nhân lực lao động qua đào tạo đại học đều đang thiếu. Chúng ta phải phát triển mạnh cả hai nguồn nhân lực này.
Còn thừa ở đây chính là nguồn nhân lực dù tốt nghiệp trung học phổ thông nhưng không qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Nên đưa giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học về cùng một đầu mối quản lý
Thứ hai, giáo dục đại học đang bị kéo lùi lại vì chịu tác động bởi các chính sách.
Hiện nay, ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học chỉ chiếm 0,27% GDP quốc dân (Theo tổng hợp số liệu trên hệ thống Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính năm 2020) – một con số quá khiêm tốn. Hơn nữa, ngân sách lại phân bố không đồng đều.
Chúng ta có xu hướng để các trường đại học tự chủ tiến tới tự túc về tài chính, các trường chỉ còn cách tăng nguồn thu từ học phí người học, học phí tăng cao thì số người tiếp cận giáo dục đại học có thể sẽ khó khăn hơn, dẫn tới số lượng lao động qua đào tạo trình độ đại học càng thấp.
Có thể thấy, vấn đề đào tạo nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với việc chuyển đổi và phát triển nền kinh tế. Vậy đâu là giải pháp để Việt Nam thực hiện tốt vấn đề đào tạo gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, thưa ông?
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Rõ ràng, việc mở rộng quy mô của giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp là điều quan trọng và cần thiết phải làm.
Theo phân loại được thừa nhận hiện nay, tỷ lệ nhập học đại học – đạt dưới 15 % thì nền giáo dục của quốc gia đó được xem đang ở giai đoạn tinh hoa -chủ yếu đào tạo các học giả và một số chuyên gia.
Còn khi tỷ lệ này nằm trong khoảng 15-50% thì giáo dục đại học chuyển qua giai đoạn đại chúng; vượt quá 50 % là giai đoạn phổ cập -đào tạo không chỉ có các học giả mà còn có cả một đội ngũ rất hùng hậu gồm các chuyên gia, chuyên gia công nghệ, kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật cao.
Giáo dục đại học tinh hoa chỉ thích hợp với nền kinh tế nông nghiệp, giáo dục đại học đại chúng mới đáp ứng được nền kinh tế công nghiệp, và giáo dục đại học phổ cập là đòi hỏi tất yếu nếu muốn bước vào nền kinh tế tri thức.
Vậy để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sẵn sàng hoà nhịp vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì cần phải chú trọng tăng tỷ lệ nhập học đại học.
Bên cạnh phát triển giáo dục đại học thì cũng cần đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp.
Các kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phải bám sát chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thậm chí của từng vùng miền, từng địa phương và cần được phân cấp xây dựng tới tận từng địa phương.
Chúng ta cần học hỏi các quốc gia vốn được xem là “con rồng Châu Á”, bên cạnh phân hệ giáo dục học thuật còn có phân hệ giáo dục chuyên nghiệp/giáo dục công nghệ, cho phép các trường công nghệ nhấn mạnh kỹ năng thực hành và khía cạnh huấn luyện của giáo dục công nghệ, cho phép các trường uyển chuyển hơn trong vấn đề thiết kế nội dung chương trình đào tạo để đáp ứng các nhu cầu của thị trường nhân lực một cách mềm dẻo và nhanh chóng hơn. Nhờ có được cả 2 loại nhân lực ở trình độ đại học như vậy nên các nước này đã rút ngắn được tiến trình công nghiệp hóa của mình.
Muốn đất nước phát triển, đi tắt đón đầu, cần đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp đa dạng về thể loại và trình độ, có cơ cấu hợp lý, đồng thời phải phù hợp với thực trạng của đất nước, ở từng vùng lãnh thổ.
Cụ thể, tôi cho rằng chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau.
Thứ nhất, chiến lược giáo dục của Việt Nam cần thực hiện theo nguyên tắc: Giáo dục đi trước một bước để tạo ra nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Có như vậy ngân sách Nhà nước mới tăng kéo theo tăng ngân sách cho giáo dục.
Thứ hai, cần xem xét lại cơ chế phân bổ ngân sách giáo dục và nguồn lực huy động từ xã hội theo hướng ưu tiên đầu tư đồng thời vào 2 mục tiêu: phổ cập giáo dục cơ bản (bao gồm giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở) và đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề (bao gồm các trình độ đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng thực hành và trung học nghề/trung học kỹ thuật).
Phải triển khai phân luồng triệt để học sinh từ sau bậc trung học cơ sở và cần xem đây là giải pháp cơ bản để nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên.
Thứ ba, phải tạo ra được sự chuyển dịch nhanh của cơ cấu lao động, theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng ở các khu vực công nghiệp và dịch vụ. Trên cả nước cũng như ở từng vùng miền cũng cần cơ cấu nhân lực (về trình độ, nghề nghiệp) và chính sách đầu tư vào công nghệ phù hợp trong cả ba khu vực kinh tế đó.
Thứ tư, Nhà nước cần có cơ chế chính sách rõ ràng để định hướng cho sự phát triển hài hòa và ổn định của toàn hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp, thông qua phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và hiệu quả của toàn hệ thống trên cả 2 phương diện: mạng lưới trường và quy trình đào tạo. Để làm được điều đó quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo phải được tập trung về cùng một đầu mối.
Thứ năm, trong lĩnh vực quản lý giáo dục, cần xóa bỏ ngay cơ chế “xin – cho”, thực hiện quyền tự chủ – trách nhiệm giải trình thực sự của các cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở thiết lập cơ chế hội đồng trường đích thực.
Cuối cùng, thực hiện triệt để chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng. Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Nhà nước cần sớm làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học, cơ chế chính sách phù hợp…
Nhà nước cần có chủ trương thực sự khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học không vì lợi nhuận, hoàn thiện quy chế trường đại học tư hoạt động không vì lợi nhuận và các chế độ chính sách ưu đãi cụ thể cho các cơ sở này.
Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Lê Viết Khuyến!
20 sinh viên Ấn Độ hào hứng nhập học Y khoa tại Việt Nam
Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng (HIU) chính thức đón 20 sinh viên Ấn Độ đầu tiên trúng tuyển ngành y khoa nhập học.
Sinh viên Khushi Jai Prakash Asrani (Ấn Độ) có ba mẹ đi cùng nhập học tại HIU chia sẻ lo lắng về khác biệt ngôn ngữ nên đã cố gắng học tiếng Việt. Tuy nhiên, khi đến Việt Nam thấy mọi người đều thân thiện chào đón mình, cảm giác lo lắng không còn.
"Tôi đã tìm hiểu rất nhiều về con người, về lịch sử và đất nước Việt Nam trước khi quyết định chọn nơi đây là điểm đến. Tôi cũng có sự so sánh việc đào tạo Y khoa của nhiều nước để thấy rằng các chính sách của HIU là tốt nhất với tôi để lựa chọn", Khushi Jai Prakash Asrani nói.
Sinh viên Khushi Jai Prakash Asrani (đứng giữa) cùng ba mẹ đến nhập học. Ảnh: HIU
sinh viên Narmatha Natesan (Ấn Độ) cho biết: "Em chọn học ngành Y vì ba em muốn em trở thành bác sĩ, và Việt Nam là điểm đến rất an toàn, thân thiện. Em hy vọng nơi đây sẽ thành ngôi nhà thứ hai của mình!"
Đây là hai trong số hơn 20 du học sinh Ấn Độ nhập học Y khoa tại HIU trong đợt này. Các bạn là những học sinh xuất sắc đã vượt qua các vòng thi xét tuyển hồ sơ và phỏng vấn của Hội đồng chuyên môn là những giáo sư, tiến sĩ đến từ các bộ môn thuộc khối ngành Sức khỏe và Ngôn ngữ văn hóa quốc tế của HIU diễn ra từ tháng 12 - 2021.
Lần đầu tiên, một trường đại học ở TP.HCM đã có những du học sinh quốc tế đến học ngành y khoa. Điều này mang ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nền giáo dục nước nhà, đánh dấu bước trưởng thành về uy tín và trình độ đào tạo y khoa của các trường đại học Việt Nam.
Chương trình đào tạo ngành y khoa có tổng thời gian là 6 năm học. Du học sinh Ấn Độ sẽ học ngành y khoa tại HIU theo chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh, được triển khai trên cơ sở chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục & Đào Tạo và Bộ Y tế, đồng thời đổi mới tiệm cận chương trình đào tạo y khoa của các nước tiên tiến trên thế giới.
Sinh viên sẽ được thực hành tại các phòng thực hành chức năng của trường và đi thực tập tại các bệnh viện là cơ sở y tế liên kết đào tạo với Trường như: Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Nguyễn Trãi ... và những đợt học thực tế cộng đồng khi tham gia các chương trình như khám răng và khám mắt cho các em học sinh THPT.
Sinh viên tốt nghiệp có thể tham gia khám chữa bệnh tại các bệnh viện, các cơ sở y tế; giảng dạy tại các cơ sở đào tạo y dược; làm việc trong các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý ngành khoa học sức khỏe cũng như các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực sức khỏe.
Ngoài việc học những kiến thức lý thuyết, lâm sàng, sinh viên quốc tế còn được học tiếng Việt và các nét đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Các Đại biểu và Đoàn sinh viên Ấn Độ trong buổi lễ.Ảnh: HIU
Tham dự buổi lễ chào đón sinh viên Ấn Độ, Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Phạm Sanh Châu, chia sẻ: "Tôi rất vui mừng khi thấy rằng các trường đại học tại Việt Nam đang nỗ lực không ngừng để trở thành điểm đến cho sinh viên quốc tế, điều này mang lại rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, chúng ta sẽ giảm tình trạng chảy máu chất xám, thu hút được ngoại tệ.Thứ hai, chúng ta sẽ làm giàu hơn năng lực giảng dạy của các thầy cô giáo. Thứ ba, việc chúng ta đón nhiều sinh viên quốc tế thì theo quy định của Unesco sẽ làm tăng hạng của chúng ta trong bản đồ giáo dục của thế giới".
Việt Nam 'hút' ông lớn công nghệ, sản xuất tăng mạnh nhất trong 3 năm Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, các sản phẩm quang học tăng 11,3% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng cao nhất trong 3 năm trở lại đây Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất của nhóm ngành điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tại Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2022 tăng...