Mừng vì được giảm giá điện lần hai
Nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trên cả nước trong bối cảnh dịch Covid-19, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục thực hiện giảm giá tiền điện trong ba tháng 10, 11, 12-2020.
Đây được đánh giá là một gói hỗ trợ trực tiếp, kịp thời và hiệu quả, giúp người dân giảm bớt khó khăn về tài chính.
Người dân vui mừng vì được hỗ trợ giảm giá tiền điện.
Chính sách kịp thời
Nhận được tin nhắn giảm gần 200 nghìn đồng tiền điện cho hóa đơn tháng 10,11,12-2020, chị Đỗ Thị Hà (Hà Đông, Hà Nội) cho biết, do gia đình có con nhỏ, mỗi tháng, nhà chị dùng hết gần 300 số điện với số tiền lên đến gần 700 nghìn đồng. Do đó, nếu được giảm 10%/tháng thì số tiền được giảm giá lần này là số tiền khá lớn với gia đình chị, giúp phần nào giảm bớt khó khăn, nhất là trong giai đoạn chị đang nghỉ thai sản.
Những ngày này, người tiêu dùng đã đồng loạt nhận được tin nhắn thông báo số tiền được khấu trừ do chính sách hỗ trợ khách hàng đợt hai do Covid-19 trong ba tháng cuối của năm 2020. Số tiền này sẽ được hoàn trả cùng thời điểm thu tiền hóa đơn các tháng kế tiếp. Theo ghi nhận của phóng viên, hầu hết người tiêu dùng đều rất phấn khởi với thông tin này bởi đây là một gói hỗ trợ trực tiếp, kịp thời và hiệu quả, giúp họ giảm bớt khó khăn về tài chính.
Chung niềm vui với nhiều khách tiêu dùng lẻ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được hỗ trợ giảm giá tiền điện đợt hai cũng rất phấn khởi. Là doanh nghiệp chuyên sản xuất inox, lượng tiêu thụ điện hàng tháng khá lớn, nhận được tin giảm giá điện trong ba tháng, ông Nguyễn Văn Chiến, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại – Dịch vụ Hải Anh (Thường Tín, Hà Nội) cho biết: Hằng tháng công ty sử dụng hết khoảng gần 100 triệu đồng tiền điện. Như vậy, nếu được giảm 10% trong 3 tháng thì tổng số tiền công ty được giảm khoảng hơn 30 triệu đồng.
“Đối với doanh nghiệp, số tiền được giảm giá không nhiều, tuy nhiên nó khích lệ tinh thần cho các doanh nghiệp cùng nỗ lực vượt qua khó khăn của dịch bệnh. Đồng thời, động thái này cũng thể hiện sự chung tay, đồng hành của Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp”, ông Nguyễn Văn Chiến đánh giá.
Video đang HOT
Thực tế, đây không phải là lần đầu tiên Chính phủ quyết định giảm giá tiền điền cho người tiêu dùng trước ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, song những hiệu quả thu được vẫn được đánh giá cao. Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho biết, trong lần giảm giá tiền điện đầu tiên vào tháng 4, 5, 6-2020, tất cả các doanh nghiệp và người dân đều rất hoan nghênh. Nhìn trên diện rộng với nhiều doanh nghiệp chế biến, sản xuất những mặt hàng thiết yếu thì việc cắt giảm chi phí tiền điện đã giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí khá lớn, lên đến hàng tỷ đồng.
“Việc tiếp tục giảm giá điện, tiền điện 10% trong ba tháng 10, 11, 12 cho người dân, và khách hàng là các cơ sở lưu trú, khách hàng có kho chứa hàng hóa trong giai đoạn hiện nay tiếp tục mang ý nghĩa rất lớn. Bởi giai đoạn hiện nay là thời điểm rất quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế. Hiện tại, các doanh nghiệp đều đang chạy đua để sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp cuối năm. Nhiều doanh nghiệp đang phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu, trong đó có cả nguồn nguyên liệu điện. Riêng với người tiêu dùng, nhu cầu chi tiêu cho các dịp lễ, Tết cuối năm cũng rất lớn. Chính vì vậy, việc giảm chi phí tiền điện trong thời điểm này là rất đáng quý và thiết thực cho doanh nghiệp cũng như người dân”, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh đánh giá.
Đồng ý kiến, ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho hay: “Trong những tháng cao điểm cuối năm, hoạt động sản xuất tiêu thụ điện năng sẽ rất lớn, việc giảm giá tiền điện cho thấy những nỗ lực rất lớn của ngành điện trong việc chủ động ứng phó với dịch bệnh Covid-19 cũng như tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trên cả nước, góp phần vực dậy kinh tế sau đại dịch”.
Nhanh chóng triển khai để người dân, doanh nghiệp được hưởng lợi
Theo Nghị quyết số 180 của Chính phủ về phương án hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện đợt 2 cho khách hàng, mới đây, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với EVN và các bộ ngành liên quan triển khai việc thực hiện xây dựng phương án hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện cho khách hàng sử dụng điện nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19.
Theo đó, giá bán lẻ điện cho khách hàng sử dụng điện sinh hoạt tiếp tục giảm 10% từ bậc 1 đến bậc 4. Khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch và khách hàng có kho chứa hàng hóa trong quá trình lưu thông sẽ được giảm giá điện bằng mức giá bán lẻ điện áp dụng cho các ngành sản xuất.
Giảm tiền điện trực tiếp cho các cơ sở phục vụ phòng chống dịch Covid-19 mua điện từ các đơn vị thuộc EVN, các đơn vị bán lẻ điện. Theo đó, giảm 100% cho các cơ sở được dùng để cách ly, khám bệnh tập trung bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19. Giảm 20% tiền điện cho các cơ sở y tế được dùng để khám, xét nghiệm, điều trị bệnh nhân nghi nghiễm, đã nhiễm Covid-19. Không thực hiện hỗ trợ giảm tiền điện đối với các cơ sở phục vụ phòng chống dịch bệnh Covid-19 thu phí cách ly y tế tập trung.
Theo Cục Điều tiết Điện lực (Bộ Công thương), trong tổng số hơn 26 triệu khách hàng sinh hoạt đang mua điện của EVN, có xấp xỉ 23 triệu khách hàng (chiếm tỉ lệ trên 85%) có mức bình quân sử dụng điện dưới 300 kWh/tháng. Phần lớn các khách hàng thuộc nhóm này là người lao động, công chức, viên chức, công nhân và người làm công ăn lương. Việc giảm tiền điện lần 2 thể hiện sự cố gắng chung tay của ngành điện cùng Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội chia sẻ trách nhiệm trong bảo đảm cuộc sống cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
“Cùng với gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, việc giảm giá điện và tiền điện sẽ hỗ trợ giảm bớt một phần khó khăn cho người dân nghèo, người yếu thế và doanh nghiệp do tác động của dịch bệnh. Để bảo đảm việc hỗ trợ giảm giá điện và giảm tiền điện trong thời gian ảnh hưởng của được áp dụng đúng đối tượng, đúng thời gian”, ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực cho hay.
Nâng cao nhận thức xã hội để hoàn thành mục tiêu phát triển bền vững
Trước những khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 phức tạp, các thành viên Hội đồng thống nhất, Việt Nam không điều chỉnh nội dung, quyết tâm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Chiều 4/1, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam , Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ trì cuộc họp của Hội đồng nhằm cập nhật tình hình giai đoạn 5 năm qua; đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong thời gian tới.
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh đã nghe báo cáo quốc gia năm 2020 về tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam và đánh giá khả năng hoàn thành đến năm 2030.
Theo kết quả phân tích, đến năm 2030, Việt Nam sẽ đạt được 5 trong số 17 nhóm mục tiêu phát triển vững, bao gồm: Mục tiêu 1 (xóa nghèo); mục tiêu 2 (xóa đói); mục tiêu 4 (giáo dục có chất lượng); mục tiêu 13 (các hành động bảo vệ khí hậu); mục tiêu 17 (quan hệ đối tác toàn cầu).
Cùng với đó, 10 nhóm mục tiêu gặp khó khăn, thách thức để hoàn thành vào năm 2030, bao gồm: Sức khỏe tốt và cuộc sống hạnh phúc; bình đẳng giới; nước sạch và vệ sinh; năng lượng sạch và giá cả hợp lý; tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững; giảm bất bình đẳng xã hội; thành phố và cộng đồng bền vững; bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học; hòa bình, công lý và thể chế vững mạnh. Hai nhóm mục tiêu rất khó hoàn thành, bao gồm: Sản xuất và tiêu dùng bền vững; bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển.
Phân tích dựa trên cơ sở dữ liệu có sẵn trong giai đoạn 2015-2020, nhiều mục tiêu phát triển bền vững sẽ gặp khó khăn, thách thức hoặc rất khó đạt được vào năm 2030. Trong khi đó, thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước còn bộc lộ nhiều vấn đề chưa bền vững như: Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng, khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn; chất lượng môi trường ở nhiều nơi xuống cấp, đặc biệt là tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, lưu vực một số con sông.
Trong khi đó, hệ thống cơ chế, chính sách đã dần hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững nhưng vẫn còn nhiều thách thức liên quan đến sự đồng bộ và thực thi hiệu quả các chính sách đã ban hành.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư định hướng đến năm 2025, chương trình hành động về phát triển bền vững cần tập trung vào một số mục tiêu cụ thể như tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế chính sách và nâng cao hiệu quả thực thi; tăng cường phối hợp, hợp tác giữa các bên liên quan để tạo sự lan tỏa trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính hiệu quả.
Cùng với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, Việt Nam sẽ tăng cường khả năng chống chịu trước các rủi ro bất định do biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh; nâng cao nhận thức nhằm tạo sự đồng thuận chung trong toàn xã hội cùng nỗ lực hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030; tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao vai trò, vị thế quốc gia.
Quang cảnh cuộc họp. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh đánh giá, chương trình phát triển bền vững do Liên hợp quốc phát động vào tháng 9/2015 nhận được sự tham gia hưởng ứng của tất cả các nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nêu 17 nhóm mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, bao gồm 158 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Trung nhận định các tiêu chí phát triển bền vững phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; do đó Việt Nam tham gia tích cực ngay từ những ngày đầu phát động. Từ vị trí thứ 88 vào năm 2015, đến năm 2020, Liên hợp quốc xếp hạng Việt Nam đứng thứ 49 về chỉ số phát triển bền vững của các quốc gia, các nền kinh tế. Kết quả phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian qua được Liên hợp quốc đánh giá cao và trở thành một trong những quốc gia được kỳ vọng nhiều nhất thực hiện các mục tiêu.
Các ý kiến thống nhất việc thứ hạng xếp loại tăng cao trong 5 năm qua là do có sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ban, ngành, địa phương cũng như sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng. Với thế mạnh chú trọng đến yếu tố con người, mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam hướng đến giá trị tốt đẹp, giá trị văn hóa, nhân văn của dân tộc, đồng lòng xây dựng một xã hội đùm bọc, tương trợ lẫn nhau trong lúc khó khăn. Do đó, Việt Nam thực hiện tốt các mục tiêu về xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, ứng phó với biến đổi khí hậu, tham gia kiến tạo hòa bình và thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Trước những khó khăn, thách thức đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, các thành viên Hội đồng thống nhất Việt Nam không điều chỉnh nội dung, quyết tâm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Trên cơ sở thống nhất triển khai tiêu chí đến cấp địa phương, Hội đồng đồng tình giao Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhanh chóng hoàn thiện bộ công cụ để Bộ Kế hoạch và Đầu tư giám sát thực hiện các tiêu chí phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, các ý kiến thống nhất trong thời gian tới, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiếp tục thúc đẩy nhận thức của các doanh nghiệp không chỉ tuân thủ pháp luật và chính sách của Nhà nước, mà còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước./.
Chất lượng khám chữa bệnh, vươn cao, vươn xa Sự kiện khánh thành 1.000 điểm cầu khám chữa bệnh từ xa, với sự tham dự và trực tiếp chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cùng nhiều vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nước... là một trong nhiều sự kiện đặc biệt quan trọng của ngành y tế trong năm 2020. Thực hiện...