Một số ý kiến về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
Trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định tại các điều 57, 58, 59, 60. So với quy định tương ứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành tại các điều 48, 49, 50, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bổ sung quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”
Chúng tôi cho rằng việc bổ sung nội dung trên là chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 15 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, thì “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Như vậy, bên cạnh những quyền công dân mà người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được hưởng, họ phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của Hiến pháp.
Video đang HOT
Thứ hai, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành cũng như Điều 15 dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đều quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Hành vi phạm tội của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội, do vậy, để bảo vệ xã hội, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm và kết tội, xử lý người phạm tội theo quy định của pháp luật. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người chống đối xã hội có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và xã hội mà cụ thể là phải tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, khai báo đúng sự thật để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng truy bắt những đối tượng đồng phạm trong vụ án, thu hồi tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt trái pháp luật, xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Thứ ba, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm, lập công chuộc tội… là khuyến khích, coi đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự hiện hành và Điều 51 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
Thứ tư, việc quy định người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”, dẫn tới hệ quả là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai báo về hành vi phạm tội của mình và đồng phạm; không khai báo về những người bị hại đang trong tình trạng nguy hiểm cần được cứu chữa, giải thoát kịp thời; không khai báo về tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang bị tẩu tán…, tức là không thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của Hiến pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm đang diễn ra phức tạp hiện nay.
Thứ năm, quy định về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo tại các điều 48, 49, 50 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đang phát huy hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, chưa cần thiết phải sửa đổi, bổ sung.
Do vậy, chúng tôi đề nghị giữ nguyên quy định về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo tại các điều 48, 49, 50 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, theo đó người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, ý kiến về những tình tiết liên quan đến vụ án.
Theo Hoàng Trung
Công an Nhân dân
Có nên quy định người bào chữa có quyền thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự
Trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Điều 128.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa thực hiện các quyền của mình theo quy định của pháp luật và dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) cũng đã bổ sung nhiều quy định để người bào chữa thực hiện tốt hơn việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, chúng tôi không đồng tình quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 128 dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) về việc người bào chữa có quyền: "Thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa theo quy định của Bộ luật này", bởi những lý do, sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, vì các cơ quan này có nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, nhất thiết các cơ quan tiến hành tố tụng phải có đủ căn cứ chứng minh người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, đây là trách nhiệm của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo quy định hiện hành: "Tin, tài liệu về quá trình điều tra vụ án hình sự chưa công bố hoặc không công bố" thuộc danh mục bí mật nhà nước. Cho nên, quy định người bào chữa có quyền thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa là không phù hợp với các quy định của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ bí mật nhà nước.
Thứ hai, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa nêu khái niệm thế nào là người bào chữa, nhưng căn cứ quy định tại các Điều 56, 57, 58 Bộ luật này thì người bào chữa được hiểu là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ủy quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nếu quy định người bào chữa có quyền thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, thì người bào chữa trở thành người tiến hành tố tụng mà theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 67 dự thảo Bộ luật này thì: "Người tiến hành tố tụng trong vụ án không được bào chữa".
Thứ ba, để có đủ cơ sở giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải tổ chức lực lượng, phương tiện, biện pháp theo quy định của pháp luật để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo theo trình tự, thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định. Nếu quy định người bào chữa có quyền thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, thì để thu thập, kiểm tra, đ.ánh giá chứng cứ người bào chữa phải tiến hành các biện pháp theo quy định của luật tố tụng hình sự, mà điều này chưa phù hợp với điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta.
Thứ tư, để thực hiện tốt nhiệm vụ bào chữa, theo chúng tôi chỉ nên quy định người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
Theo Tạ Diễn
Công an Nhân dân
Coi trọng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng hình sự Cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra có trách nhiệm phải tìm được bằng chứng chứng minh vô tội song song với việc tìm bằng chứng chứng minh có tội. Suy đoán vô tội hay giả định vô tội, là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại trong việc...