Lai Châu tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
Thực hiện đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025″ của tỉnh Lai Châu, những năm qua, ngành Giáo dục Lai Châu đã có nhiều giải pháp tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh ở hai cấp học này.
Qua đó, học sinh mầm non, tiểu học dân tộc thiểu số đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn.
Linh hoạt các giải pháp
Cùng với việc học nói tiếng Việt, các học sinh trên địa bàn tỉnh Lai Châu được tăng thời gian luyện chữ trên lớp. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN
Lai Châu là tỉnh miền núi, biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc, với 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 5 dân tộc rất ít người là Cống, Mảng, Si La, La Hủ và Lự. Người dân tộc thiểu số chiếm 86% dân số của tỉnh. Khó khăn lớn nhất của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường là khả năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, học tập. Vì vậy, để các em có thể nói thành thạo tiếng Việt ngay từ nhỏ, phòng giáo dục các huyện, thị đã lồng ghép nhiều giải pháp linh hoạt trong hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho học sinh.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác dạy tiếng Việt cho học sinh trên địa bàn, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Phong Thổ đã cụ thể hóa đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025″ của tỉnh Lai Châu trong thực hiện nhiệm vụ năm học, với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú.
Ông Nguyễn Vương Hùng, Phó trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện cho biết: với đặc thù là huyện biên giới, có đông người dân tộc thiểu số, Phòng đã chỉ đạo các trường xây dựng mô hình thư viện tại trường; tổ chức ngày hội đọc sách, hội thi giao lưu tiếng Việt giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
Mặt khác, Phòng đẩy mạnh tuyên tuyền tại các trường mầm non, tiểu học với nhiều hình thức như: qua các hội thi, hệ thống loa phát thanh, chương trình măng non của trường, các cuộc họp bản…; phối hợp với chính quyền địa phương vận động cha mẹ học sinh thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt tại gia đình để trẻ có thêm vốn từ.
Đến nay, trên địa bàn, tỷ lệ học sinh mầm non ra lớp theo đúng độ tuổi đạt gần 100%; học sinh tiểu học dân tộc thiểu số đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của huyện.
Còn tại huyện Tam Đường, ông Phạm Chiến Công, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện cho hay: thời gian qua, Phòng đã chỉ đạo các trường làm tốt công tác phối hợp giữa gia đình, khuyến khích cha mẹ trẻ nói tiếng Việt tại gia đình, cộng đồng nơi trẻ sinh sống, để tạo cơ hội cho trẻ thường xuyên được sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày.
Video đang HOT
Đồng thời, Phòng cũng chỉ đạo các trường khai thác sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi; xây dựng mô hình thư viện thân thiện, tạo không gian đọc cho học sinh đảm bảo tạo môi trường học tập thân thiện phù hợp với nội dung giáo dục của từng độ tuổi, từng chủ đề, lớp học. Đến nay, tất cả trẻ em mẫu giáo, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số đều được tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi. Tỷ lệ trẻ ra lớp theo đúng độ tuổi đạt gần 100%.
Nhiều cách làm sáng tạo
Giáo viên Trường Tiểu học Đoàn Kết, huyện Phong Thổ (Lai Châu) hướng dẫn học sinh viết chữ. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN
Do đặc thù là tỉnh có đông người dân tộc thiểu số, nên khả năng nói thành thạo tiếng Việt của học sinh còn nhiều hạn chế. Xác định khó khăn này, các trường học trên địa bàn đã có nhiều cách làm sáng tạo trong việc tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh.
Năm học 2021-2022, Trường Mầm non Thu Lũm, xã biên giới Thu Lũm, huyện Mường Tè có 178 trẻ dân tộc Hà Nhì, Dao và La Hủ. Hầu hết trẻ chưa nói sõi tiếng Việt, gây khó khăn trong việc giao tiếp giữa cô và trò.
Cô giáo Tao Thị Yên, Phó Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ: nhằm giúp trẻ có thể nói được tiếng Việt ngay từ nhỏ, nhà trường đã phân loại từng đối tượng để có cách dạy phù hợp, đồng thời khuyến khích các cô giáo học tiếng dân tộc để dạy song ngữ cho trẻ. Mặt khác, trường cũng thường xuyên lồng ghép sử dụng tiếng Việt trong tổ chức các hoạt động văn hóa dân tộc, nghe kể chuyện dân gian, đọc thơ, ca dao…, trong đó tập trung vào việc luyện phát âm ngọng cho trẻ.
Cùng với đó, nhà trường chỉ đạo giáo viên viết bằng chữ phổ thông lên các khu vui chơi, đồ dùng, đồ chơi ngoài trời để trẻ có thể luyện phát âm; khuyến khích trẻ giao tiếp với cô giáo và các bạn bằng tiếng Việt. Nhờ vậy, bước đầu trẻ đã nhận biết, phát âm tương đối đúng theo bộ chữ cái tiếng Việt và có kỹ năng cơ bản trước khi vào lớp 1.
Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Huổi Luông, xã biên giới Huổi Luông, huyện Phong Thổ có một điểm trường chính và 12 điểm trường lẻ với 35 lớp/885 học sinh, trong đó, 98% học sinh là người dân tộc thiểu số. Thực hiện nhiệm vụ giáo dục trên địa bàn xã vùng biên giới, nhà trường gặp không ít khó khăn. Các em học sinh nói tiếng phổ thông chưa thạo, còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp dẫn đến việc trao đổi bài trên lớp chưa sôi nổi.
Trước thực tế đó, nhà trường tích cực, tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc, nhằm giúp các em mạnh dạn khi giao tiếp và học tập hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục.
Thầy giáo Đặng Công Sáu, Hiệu trưởng nhà trường cho biết: xác định tiếng Việt có vai trò quan trọng trong hoạt động dạy và học, thời gian qua nhà trường đã tăng số buổi học trong tuần ở tất cả các khối lớp để học sinh có nhiều cơ hội cũng như thời gian giao tiếp bằng tiếng phổ thông với thầy cô, bạn bè; tích hợp dạy tiếng Việt trong các môn học, hoạt động giáo dục ngoài giờ, tăng thời gian luyện nói cho học sinh.
Đối với các tổ, khối, nhà trường phân công tổ trưởng, tổ phó chuyên môn chịu trách nhiệm việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh tại khối lớp mình. Mỗi giáo viên có kế hoạch cụ thể về chương trình soạn giảng, giờ dạy học, đảm bảo nội dung tăng cường tiếng Việt cho học sinh. Hình thức dạy học theo hướng phân hóa các đối tượng, bám sát đối tượng, phù hợp và phát huy được tính tích cực của nhiều học sinh trong cùng một lớp được áp dụng. Ngoài ra, nhà trường khuyến khích giáo viên tự học tiếng dân tộc để phục vụ công tác giảng dạy.
Nhờ đó, năm học vừa qua, 100% học sinh trong trường biết giao tiếp bằng tiếng Việt, nhất là học sinh khối lớp 1 có khả năng nói tiếng Việt thành thạo. Em Chu Dô Hôi, học sinh lớp 3A2 bộc bạch: trước đây, ở nhà, em hay giao tiếp với bố mẹ và mọi người trong bản bằng tiếng Hà Nhì. Khi đến lớp, em biết ít tiếng phổ thông nên gặp khó khăn khi học, nói chuyện với thầy cô, bạn bè. Từ khi được các thầy cô giảng dạy tiếng Việt, vốn từ của em phong phú hơn và giờ em có thể nói, viết bằng tiếng Việt.
Với những cách làm hiệu quả, năm 2020 Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Huổi Luông được Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong thực hiện đề án tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số.
Thống kê của ngành chức năng, giai đoạn 2016-2020, Lai Châu có 100% trẻ mầm non, tiểu học ra lớp được tăng cường tiếng Việt theo từng độ tuổi; trẻ ra lớp được ăn ngủ bán trú tại trường và học 2 buổi/ngày theo chương trình giáo dục phổ thông. 100% cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học được bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phục vụ hiệu quả công tác tăng cường tiếng Việt. Trẻ mẫu giáo từ 3-5 tuổi ra lớp đạt 99,2%, học sinh dân tộc thiểu số vào lớp 1 được học qua lớp mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,8%. Đa số học sinh tiểu học dân tộc thiểu số đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, học tập, góp phần nâng cao tỷ lệ chuyên cần và chất lượng giáo dục trên địa bàn.
Thời gian tới, ngành Giáo dục Lai Châu tiếp tục chỉ đạo các trường học duy trì mô hình thư viện tại trường, ngày hội đọc sách và hội thi giao lưu tiếng Việt; khuyến khích các thầy cô giáo đề xuất ý tưởng, cách làm mới về tăng cường tiếng Việt cho học sinh; tăng cường thời gian luyện nói cho học sinh trong các giờ học chính khóa, sinh hoạt đội, sinh hoạt sao nhi đồng. Các trường lồng ghép hoạt động vui chơi gắn với học tiếng Việt để học sinh thành thạo tiếng Việt, tự tin tham gia hoạt động chung của trường, lớp.
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018: Chấm dứt học văn theo mẫu!
"Củng cố dạy tiếng Việt"; "chấm dứt học theo văn mẫu/bài mẫu, dẫn tới triệt tiêu sự sáng tạo của thầy và trò" là những điểm Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh đối với dạy và học môn Ngữ văn ở bậc trung học.
Sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn mới lớp 6 theo chương trình Giáo dục phổ thông (CT GDPT) 2018 đã cụ thể hóa lưu ý trên bằng những nội dung và yêu cầu sát thực.
Rèn luyện đồng đều 4 năng lực: Đọc- nói- viết- nghe
Để không còn tình trạng một học sinh (HS) viết rất hay nhưng nói dở; nói rất hay nhưng viết dở; đọc bài mà không hiểu hoặc nghe mãi vẫn chưa thông; SGK Ngữ văn lớp 6 theo Chương trình GDPT 2018 được xây dựng trên tinh thần phát triển năng lực cho HS và yêu cầu cần đạt, đó là HS là phải thành thạo cả 4 kỹ năng: Đọc- viết- nói và nghe.
SGK Ngữ văn 6 không phân biệt các phân môn: Văn học- Tiếng Việt, Làm văn như trước đây mà tổng hòa làm một; sau mỗi bài học, những điều HS nhận lại được sẽ là tổng hợp và đồng đều cả 4 kỹ năng trên.
Theo PGS.TS Bùi Mạnh Hùng - Tổng Chủ biên SGK Ngữ văn 6 Bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" thì chương trình GDPT mới rất mở cho tác giả viết sách; đồng thời mở cho cả giáo viên và HS. Chương trình SGK Ngữ văn thực sự mới, góp phần thay đổi việc dạy- học Ngữ văn trong nhà trường; giúp giáo viên, HS thích môn Văn; đổi mới cách tiếp cận; chú trọng hình thành phẩm chất năng lực; tích hợp kiến thức ngôn ngữ và kiến thức văn học thông qua hoạt động; giúp phát huy tinh thần tự học của HS; khơi gợi khả năng sáng tạo của cả thầy và trò để từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học Ngữ văn trong thời gian tới.
Với SGK Ngữ văn mới lớp 6, HS được rèn luyện 4 kỹ năng: Đọc- viết- nói và nghe
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống - Chủ biên SGK Ngữ văn 6 bộ "Cánh diều" cho hay: Sách biên soạn theo định hướng phát triển năng lực, cụ thể hóa 3 loại văn bản chính: Văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin và giáo viên hoàn toàn chủ động về thời gian của bài học; tuy nhiên phần đọc hiểu cần chú trọng nhất. Cấu trúc bài học trong SGK Ngữ văn 6 cũng có nhiều đổi mới quan trọng so với sách hiện hành. Đó là, HS sẽ học theo chủ đề; mỗi bài học rèn luyện đồng đều 4 kỹ năng: Đọc- viết- nói và nghe gồm: Đọc- sau khi đọc- viết kết nối với đọc; thực hành Tiếng Việt, củng cố mở rộng; thực hành đọc, nghe... Về phần viết/nói luôn yêu cầu HS thực hành theo các bước: Trước khi viết/ trước khi nói; viết/trình bày nói; chỉnh sửa bài viết/sau khi nói và kiểm tra đánh giá bài viết/bài nói.
Chính bởi HS được rèn luyện nhuần nhuyễn, thuần thục các kỹ năng trên trong mỗi bài học nên PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nam - Chủ biên SGK Ngữ văn 6, Bộ "Chân trời sáng tạo" nhấn mạnh, học SGK theo CT GDPT mới sẽ cung cấp năng lực thẩm mỹ, năng lực văn học và năng lực giao tiếp cho HS. Quan điểm của SGK Ngữ văn 6 là tích hợp dạy học và dạy các kỹ năng; đọc hiểu văn bản và dạy Tiếng Việt; viết và nói Tiếng Việt; các chủ điểm và thể loại văn bản; thiết kế các hoạt động hướng dẫn HS học quan sát, trải nghiệm, rút kinh nghiệm, từ đó tự điểu chỉnh, kiến tạo kiến thức cho bản thân. Khi HS làm chủ bài đọc, làm chủ tư duy trong một tác phẩm thì sẽ có cách hiểu đúng và cách viết vừa đảm bảo yêu cầu; vừa thể hiện sự sáng tạo, lồng ghép cách nhìn nhận, quan điểm của mình mà không lệ thuộc vào khuôn mẫu, bài mẫu.
Giáo viên gợi mở, học sinh chủ động
Theo cô Chu Hà - giáo viên dạy Ngữ văn lớp 6, trường THCS Sơn Đà, huyện Ba Vì, Hà Nội thì: SGK Ngữ văn 6 theo CT GDPT 2018 rất mở, là những chủ đề gần gũi, thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của HS. Và tuy mỗi bài học đều lồng ghép rất nhiều yêu cầu nhưng theo chuỗi logic nhất định và luôn tạo hứng thú cho người học.
Trong CT GDPT 2018, việc tạo cơ chế rộng để các trường chủ động chọn lựa những bộ SGK khác nhau; học những bài học, văn bản không giống nhau và chỉ giữ khung chương trình chung; vô hình trung đã giúp loại bỏ hẳn việc HS học thuộc một bài văn mẫu nào đó rồi mang đi thi hoặc trước khi thi lôi sách mẫu/bài mẫu ra học/đọc.
Về vai trò của giáo viên dạy Ngữ văn, cô Chu Hà cho hay, với chương trình SGK mới, các thầy cô có trách nhiệm dẫn dắt, khơi gợi về phương pháp để HS nắm bắt được nội dung tác phẩm cũng như các yêu cầu cần đạt của bài học.
Học sinh chủ động và sáng tạo trong học Ngữ văn sẽ loại bỏ tình trạng văn mẫu
Chương trình SGK Ngữ văn lớp 6 theo CT GDPT mới đưa nội dung nghị luận văn học vào ngay từ học kỳ 1. Nội dung thể loại ở học kỳ 1 tiếp tục được củng cố, nhấn mạnh, tăng cường ở học kỳ 2 giúp HS tự tin và nắm chắc kiến thức; đồng thời có đầy đủ kỹ năng cần thiết khi làm bài. "Nếu đề thi rơi vào các tác phẩm mới, không có trong SGK thì việc thuần thục kỹ năng đọc hiểu và viết sẽ giúp các em dễ dàng hoàn thành bài làm"- cô Chu Hà nói.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc HS không theo bài mẫu/văn mẫu là khó khả thi, thậm chí không thể chấm dứt được "nạn" văn mẫu bởi các thầy cô vẫn chấm bài theo Barem... Bày tỏ quan điểm về việc này, cô Nguyễn Mỹ Hạnh, giáo viên dạy Ngữ văn tại một trường THCS thuộc quận Nam Từ Liêm, Hà Nội cho hay, suy nghĩ như vậy là cực đoan. Trong CT GDPT mới, sẽ không có gì là "khuôn mẫu" vì cả cách học và cách dạy đều rất mới, sáng tạo và hoàn toàn là quá trình định hướng- khơi gợi năng lực tự chủ, tự học, tự cảm nhận của HS. Với kỹ thuật đọc- viết được học và trau dồi thường xuyên qua 4 năm THCS và 3 năm THPT, đặc biệt là phần thực hành rất bài bản, HS có thể tự tin những bài viết theo ngôn từ và cảm nhận của riêng mình nhưng vẫn đảm bảo nội dung cốt lõi của yêu cầu mà đề bài đặt ra. Và như vậy, CT GDPT mới sẽ là công cụ để "dẹp nạn" văn mẫu trong nhà trường.
Từ các bộ SGK lớp 6 biên soạn theo CT GDPT 2018 được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT phê duyệt, 63 tỉnh/TP đã tổ chức lựa chọn sách theo quy định của Thông tư số 25. Kết quả, tại mỗi tỉnh/TP, mỗi môn học/hoạt động giáo dục được chọn từ 1 đến 5 bộ sách trong đó tỉ lệ chọn 1 bộ/môn học khoảng 50%; 2 bộ/môn học khoảng 30%. Dù dịch bệnh phức tạp nhưng các địa phương, cơ sở giáo dục đã ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, chủ động khắc phục khó khăn, triển khai công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ trong năm học mới.
Nhiều giải pháp bảo đảm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vùng khó Cử tri huyện Thường Xuân, Thanh Hóa đề nghị Bộ GD&ĐT đầu tư xây dựng nhà hiệu bộ, khu bán trú và chế độ nội trú cho các trường THCS bán trú ở huyện miền núi. Ảnh minh họa/INT Về vấn đề này, Bộ GD&ĐT cho biết: Việc bảo đảm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo...