Không biết ngoại ngữ vẫn có thể giúp con thành thạo
Cho trẻ bắt đầu sớm, thuê người giúp việc biết ngoại ngữ, tìm kiếm học liệu trên Internet… là cách giúp con bạn thành thạo ngoại ngữ.
1. Bắt đầu sớm
Theo nghiên cứu của tạp chí Scientific American, khả năng tiếp thu ngoại ngữ của trẻ sẽ giảm đi từ năm 10 tuổi. Trước năm 10 tuổi là khoảng thời gian lý tưởng để trẻ học ngoại ngữ và có thể tiếp thu nhanh nhất. Vì vậy, cha mẹ nên cho con bắt đầu càng sớm càng tốt.
Từ khi vài tuần tuổi, trẻ đã phân biệt được ngôn ngữ, dù chưa thể nói ra nhưng có thể tiếp nhận rất nhanh. Trẻ càng được tiếp xúc ngôn ngữ sớm, càng có nhiều thời gian để thực hành.
Ảnh: Shutterstock
2. Thuê người trông trẻ không nói tiếng mẹ đẻ
Martha Abbott, giám đốc điều hành của Hội đồng giảng dạy ngoại ngữ Mỹ, tư vấn nếu cha mẹ chỉ nói một ngôn ngữ thì có thể cho trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ mới theo cách tự nhiên thông qua những người trông trẻ biết ngoại ngữ hoặc người bản ngữ. Khi chăm sóc trẻ, cha mẹ hãy yêu cầu người trông trẻ sử dụng ngoại ngữ.
Nhờ người trông trẻ, trẻ được tiếp xúc với ngoại ngữ như cách tiếp xúc với tiếng mẹ đẻ. Họ dành thời gian vui chơi, trò chuyện với trẻ, khiến các em thấy thoải mái, tự nhiên, từ đó có thể nhanh chóng tiếp thu ngôn ngữ mới.
Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ nên dễ dàng tìm kiếm nguồn tài liệu học ngoại ngữ trên Internet. Bạn có thể tìm video hoạt hình dành cho trẻ em trên Youtube Kids. Hiện tại, một số chương trình hoạt hình nổi tiếng như Puppy Dog Pals (Những người bạn cún con), Peppa Pig (Chú heo Peppa) có sẵn trên Youtube với 21 ngôn ngữ gồm tiếng Anh, Trung Quốc, Hà Lan.
Video đang HOT
Phụ huynh đừng lo con không thể hiểu hết nội dung chương trình. Mục đích chính khi trẻ xem những bộ phim này là tiếp nhận âm thanh và làm quen với ngoại ngữ.
Xem quá nhiều video sẽ không tốt cho sức khỏe của trẻ, vì vậy phụ huynh có thể thử thêm âm nhạc. Trẻ rất thích giai điệu và ca hát, có xu hướng hát theo hoặc chú tâm đến bài hát. Bạn nên lựa chọn những bài hát có ca từ đơn giản, dễ hiểu, giai điệu bắt tai hoặc tìm danh sách bài hát thiếu nhi bằng ngoại ngữ mà trẻ học.
Ngoài ra, phụ huynh có thể tìm kiếm chương trình truyền hình nước ngoài, sách truyện song ngữ (nếu trẻ đã biết đọc tiếng mẹ đẻ) hoặc các chương trình giáo dục ngoại ngữ trực tuyến.
4. Giáo viên bản ngữ
Khi con lớn hơn và làm quen với ngoại ngữ, cha mẹ hãy thuê giáo viên bản ngữ hoặc đưa trẻ đến học ở trung tâm ngoại ngữ. Lắng nghe thôi là chưa đủ, trẻ cần luyện nói và thực hành ngôn ngữ mình tiếp nhận suốt thời gian trước đó.
Bước đầu học nói vô cùng quan trọng, quyết định cách trẻ sử dụng ngôn từ nên nếu được tiếp cận người bản ngữ có khả năng phát âm chuẩn xác, trẻ sẽ học được cách nói chuyện như họ. Ví dụ, với việc học tiếng Anh, phụ huynh có thể lựa chọn giáo viên người Anh, người Mỹ hoặc người Australia.
Với những gia đình có điều kiện, phụ huynh có thể đăng ký cho con theo học trường mẫu giáo song ngữ. Tại đó, trẻ không chỉ được học ngoại ngữ mà có thể chơi đùa, luyện tập cùng các bạn thường xuyên để sử dụng ngoại ngữ nhuần nhuyễn và tự tin hơn.
5. Luyện tập tại nhà
Sau một ngày học ở trung tâm hoặc tại trường mẫu giáo, trẻ nên được củng cố kiến thức bằng sách bài tập, ứng dụng học ngoại ngữ tại nhà hoặc các nguồn tài liệu khác. Phụ huynh có thể tham gia học và chơi cùng con. Trẻ em thường bắt chước cha mẹ, vì vậy nếu con thấy bạn thích học ngoại ngữ, các bé sẽ làm theo. Việc bạn có phát âm đúng từ hay dùng có đúng ngữ pháp không đều không thành vấn đề. Điều quan trọng là bạn ở bên cạnh cùng con tham gia các hoạt động, từ đó thúc đẩy sự hào hứng, phấn khích giúp trẻ học tốt hơn.
Theo Offspring, Little London/VnExpress
Bỏ thi chứng chỉ ngoại ngữ: 'Việc nên làm từ lâu'
Chuyên gia giáo dục và giáo viên đều cho rằng lẽ ra quy định bãi bỏ việc thi và cấp chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A, B, C nên thực hiện từ lâu.
26 năm tồn tại nhiều bất hợp lý
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ vừa ký ban hành Thông tư số 20/2019-BGDĐT bãi bỏ các quy định về kiểm tra và cấp chứng chỉ ngoại ngữ theo chương trình giáo dục thường xuyên, tại Quyết định số 30/2008/QĐ của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định về việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra và cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học theo chương trình giáo dục thường xuyên.
Điều này đồng nghĩa các trung tâm, cơ sở giáo dục sẽ phải dừng tổ chức thi, cấp chứng chỉ ngoại ngữ theo chương trình giáo dục thường xuyên (trình độ A, B, C) từ ngày 15/1/2020. Còn các chứng chỉ ngoại ngữ đã cấp theo quy định tại Quyết định 30/2008/QĐ-BGDĐT vẫn có giá trị sử dụng.
Chứng chỉ ngoại ngữ từ lâu không còn phù hợp (Ảnh minh họa).
Được biết, chứng chỉ ngoại ngữ ra đời từ năm 1993 (Quyết định số 177/QĐ-TCBT ngày 30/1/1993 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Chương trình tiếng Anh thực hành A, B, C) dùng đánh giá trình độ Anh ngữ tại Việt Nam. Sau này, dù ban hành các quy định mới về đánh giá năng lực ngoại ngữ cho người Việt tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, nhưng loại chứng chỉ A, B, C vẫn tồn tại.
Như vậy, sau 26 năm, chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A, B, C bị khai tử do không còn phù hợp với thực trạng xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Động thái tích cực của Bộ GD&ĐT nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giáo viên, sinh viên và dư luận xã hội.
Cô giáo Nông Thị Lùng, trường Tiểu học Nậm Pắc B (Điện Biên) vui mừng, khi biết được thông tin bỏ thi chứng chỉ ngoại ngữ. Không chỉ cô mà nhiều giáo viên vùng cao thở phào nhẹ nhõm, như tháo được một gánh nặng về bằng cấp trên vai.
"Thú thật, đa phần giáo viên vùng cao như chúng tôi không sử dụng tiếng Anh, nó không cần thiết kể cả trong giảng dạy lẫn ngoài đời sống. Nhưng 'cực chẳng đã' vì quy định, vì yêu cầu xét nâng hạng, vào biên chế... nên phải đi thi.
"Những tấm chứng chỉ này là 'giấy thông hành' để viên chức, đạt các tiêu chuẩn thăng hạng chức danh nghề nghiệp, sau đó gần như không dùng đến, thậm chí một nét bẻ đôi cũng không biết", cô Lùng chia sẻ
Thầy Nguyễn Văn Tuấn, trường Tiểu học Kim Bài (Hà Nội) cho rằng, lẽ ra phải bỏ thi chứng chỉ này từ lâu rồi. Bởi chúng ta chứng kiến quá nhiều bất cập, thực sự làm khổ giáo viên vì nó không xuất phát từ nhu cầu của bản thân mỗi người giáo viên, nó chỉ làm đẹp hồ sơ.
"Muốn xét thăng hạng, chúng tôi còn bao nhiêu tiêu chuẩn, phải đủ năm hoàn thành tốt nhiệm vụ, phải nỗ lực không ngừng trong quá trình giảng dạy... đó mới là những tiêu chuẩn thực chất nhất chứ không phải mấy chứng chỉ học và thi cấp tốc", thầy Tuấn cho hay.
Bắt nguồn từ nhu cầu của giáo viên
Theo GS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khuyến học Việt Nam, việc bỏ gánh nặng thi các chứng chỉ sáo rỗng nên nên làm từ 5- 7 năm trước.
"Cứ cho việc học, việc thi thực chất; các chuẩn đều đạt và người học được cấp chứng chỉ công nhận trình độ ngoại ngữ, nhưng thử hỏi nếu không có điều kiện sử dụng, liệu các kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) có bị mai một, thui chột không? Như vậy việc học, việc đào tạo trở nên vô cùng lãng phí vì học xong rồi để đó", giáo sư Dong đặt câu hỏi.
Tồn tại song song cùng chứng chỉ này còn có đề án ngoại ngữ quốc gia, việc học và sử dụng cần xuất phát từ chính bản thân các giáo viên. Dù có bỏ chứng chỉ nhưng chính các thầy cô giáo cũng nên tự trau dồi, tự đánh giá về năng lực ngoại ngữ của bản thân, không nên để học sinh giỏi tiếng Anh trong khi người dạy không biết gì.
"Chúng ta không nên coi việc học tiếng Anh là gánh nặng, mà phải biến nó thành nhu cầu và điều hiển nhiên cần có cho mình và cho học sinh", GS Dong nói.
TS Nguyễn Thị Dinh, Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, một em nhỏ bán hàng rong nhưng lại nói tiếng Anh 'như gió' vì em có nhiều cơ hội tiếp xúc với du khách nước ngoài. Động lực và mục đích giao tiếp ở đây là bán được hàng nên các em tự học, tự tìm hiểu mặc dù không qua trường lớp nào mà chỉ thông qua thực tế.
Vậy việc học ngoại ngữ cho giáo viên thì phải tạo mọi điều kiện giao lưu, học hỏi với giáo viên, học sinh nước ngoài; là những dịp tham quan, học tập ở nước ngoài... hoặc đơn giản chỉ là nhưng hội thi cấp trường về giáo viên nói tiếng Anh.
"Bỏ chứng chỉ là điều rất đáng mừng, nhưng cũng nên có cách đánh giá mới về năng lực và trình độ ngoại ngữ của giáo viên. Không thể bỏ khoảng trống này được, vì bản thân giáo viên là người gương mẫu đi đầu, trình độ kém hơn học sinh là điều không nên.
Đặc biệt cách đánh giá mới phải xuất phát từ chính nhu cầu của mỗi giáo viên, phải linh hoạt không nên đặt ra một quy định cứng nhắc, không để tình trạng "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa", TS Dinh chia sẻ thêm.
Theo VTC
Ba ứng viên đạt chuẩn PGS có bằng 2 tiếng Anh ĐH Đông Đô: Thực lực ra sao? Trong số 349 ứng viên Phó giáo sư (PGS) đạt tiêu chuẩn công nhận năm nay, có 3 ứng viên có văn bằng 2 tiếng Anh của trường ĐH Đông Đô. Tất cả các ứng viên này đều được đánh giá ngoại ngữ sát hạch tại hội đồng cơ sở. Theo tìm hiểu của Tiền Phong, 3 ứng viên này gồm: 1 ứng...