Khi nào cho trẻ dùng thuốc hạ sốt?
Vào mùa hè với những đợt nắng nóng nhiệt độ tăng cao, xen kẽ với những đợt mưa, lũ lụt… nên nhiều bệnh, tật do vi khuẩn, virut, nấm… bùng phát. Và, sốt là một trong những biểu hiện đầu tiên của nhiều bệnh…
Cơ chế gây sốt
Sốt có thể do nhiều yếu tố gây ra gồm vi khuẩn và độc tố vi khuẩn, virút, nấm, xoắn khuẩn, các phản ứng miễn dịch, các hormon điển hình là progesterol, các thuốc và các polynucleotid tổng hợp. Các chất này gọi chung là chất sinh nhiệt ngoại sinh.
Chất sinh nhiệt ngoại sinh gây sốt thông qua một chất trung gian gọi là chất sinh nhiệt nội sinh, đó là interleukin 1 (IL-1). Chất này được bạch cầu đơn nhân và đại thực bào bài tiết khi có tác động của các chất sinh nhiệt ngoại sinh. IL-1 được máu đưa tới trung khu điều hoà thân nhiệt ở vùng dưới đồi thị rồi gắn vào các neuron cảm nhận nhiệt ở vùng trước thị giác của đồi thị và “đặt lại chuẩn” của trung tâm điều hoà thân nhiệt lên mức cao hơn. Khi đó làm cho thân nhiệt bình thường trở nên thấp hơn “mức chuẩn” mới, làm người ta có cảm giác ớn lạnh, sởn gai ốc, run và co mạch ngoại vi làm da và niêm mạc tái. Đây là triệu chứng khởi đầu của cơn sốt và là cơ chế làm tăng thân nhiệt.
Khi thân nhiệt đạt tới “mức chuẩn” mới thì quá trinh sinh nhiệt và thải nhiệt cân bằng và sốt duy trì thân nhiệt ở mức cao. Khi nguyên nhân sốt được loại bỏ thì mức “nhiệt chuẩn” trở lại bình thường làm người bệnh lại cảm thấy quá nóng. Khi đó bệnh nhân vã mồ hôi, da ửng đỏ vì dãn mạch, tăng tần số thở, các phản ứng trên làm tăng thải nhiệt và sốt giảm. IL-1 còn kích thích tổng hợp prostaglandin E1 (PGE1) gây hoạt hoá quá trình sinh nhiệt và giữ nhiệt, huy động bạch cầu từ các kho dự trữ trong tuỷ xương, gây hoá ứng động với bạch cầu tới các nơi vi khuẩn xâm nhập, làm tăng giải phóng enzym và tăng hoạt tính thực bào của bạch cầu. Đây là cơ chế bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh. IL-1 có trong các tế bào hình sao của não được giải phóng vào não gây hoạt hoá các neuron gây ngủ sóng chậm gây ra tình trạng ngủ gà, ngủ lâu khi sốt có tác dụng bảo vệ tế bào não.
Như vậy, sốt là một phản ứng bảo vệ của cơ thể để chống lại các tác nhân gây bệnh. Đây là phản ứng có lợi, nó chỉ trở nên có hại khi sốt cao quá mức do sốt làm gia tăng quá trình chuyển hoá và teo cơ bắp vì IL-1 huy động các acid amin từ cơ thông qua vai trò của men cyclo oxygenase. Hiện tượng này gây ra đau mỏi cơ và teo cơ bắp do sốt. Sốt làm tăng nhịp tim, tăng tiết mồ hôi gây mất muối, mất nước, nhức đầu, sợ ánh sáng, toàn thân mệt mỏi. Người cao tuổi đang mắc các bệnh tim hoặc não thì sốt là tác động xấu. Trẻ em khi sốt cao trên 40oC dễ bị co giật.
Cần hạ nhiệt khi sốt cao (nhiệt độ nách trên 390C)
Xử lý thế nào?
Video đang HOT
Từ các phân tích trên chúng ta cần có thái độ hợp lý khi xử lý sốt để phát huy được tác dụng tích cực của sốt và làm giảm những tác dụng bất lợi của sốt. Khi sốt nhẹ ( 39oC) thì cần hạ nhiệt. Có hai biện pháp hạ nhiệt đó là:
Hạ nhiệt bằng phương pháp vật lý (nên được ưu tiên sử dụng trước) gồm cởi bớt quần áo cho thoáng, chườm lạnh bằng đắp khăn thấm nước mát lên bẹn, nách, trán, hai bên thái dương, tưới nước muối đẳng trương để làm mát người.
Phương pháp dùng thuốc hạ sốt. Có 5 nhóm thuốc hạ sốt giảm đau: Nhóm dẫn xuất của acid salicilic (natri salicilat, aspirin), nhóm dẫn xuất của pyrazolon (antipyrin, pyramidon, amidopyrin), nhóm dẫn xuất của anilin (phenacetin, paracetamol), nhóm dẫn xuất của indol (indomethacin), nhóm các thuốc khác (antranilic, ketoprofen, ibuprofen…). Các thuốc trên đều có tác dụng hạ sốt, giảm đau, chống viêm, trong đó paracetamol, aspirin, amidopyrin hay được sử dụng để hạ sốt.
Khi sử dụng thuốc hạ sốt cần lưu ý vì không có tác dụng điều trị nguyên nhân mà chỉ làm giảm triệu chứng nên khi thuốc được thải trừ sốt sẽ trở lại. Các thuốc này đều ức chế tổng hợp prostaglandin nên dễ gây thiếu máu ở các cơ quan, gây giảm tạo chất nhầy bảo vệ của đường tiêu hoá dễ gây viêm và loét đường tiêu hoá, thuốc chanh chấp với vitamin K, ức chế kết dính tiểu cầu dễ gây ra chảy máu. Vì vậy, không được dùng các thuốc trên cho người có tiền sử bị viêm loét hoặc chảy máu dạ dày hành tá tràng, nên uống thuốc lúc no sau bữa ăn, không dùng trong sốt xuất huyết và các bệnh nhân có bệnh thận, bệnh gan, tăng huyết áp. Chỉ dùng liều thấp nhất có tác dụng.
Đối với aspirin còn có tác dụng ức chế bài tiết acid uric ở ống thận, vì vậy không dùng ở người bị bệnh gút. Aspirin còn gây bùng phát cơn hen hoặc làm cơn hen nặng lên nên không dùng cho người bị bệnh hen. Còn paracetamol, là thuốc có nhiều dạng dùng (viên nén, viên đạn, dạng xiro, viên sủi bọt…) với rất nhiều tên gọi. Vì vậy người dùng cần thận trọng để tránh dùng nhiều loại thuốc một lúc mà trong đó đều có chứa paracetamol, gây quá liều, hại gan. Đối với trẻ em cần chọn dạng dùng thích hợp với trẻ.
Bình thường, cơ thể người luôn được duy trì ở một khoảng nhiệt độ rất hẹp để tạo thuận lợi cho chuyển hoá tế bào và hoạt động bình thường của các cơ quan trong cơ thể. Trong ngày thân nhiệt xuống thấp nhất vào 2-4 giờ sáng (35,8oC – 36oC), rồi thân nhiệt tăng dần tới đỉnh điểm vào khoảng 6 – 10 giờ tối (37oC – 37,2oC). Nhiệt độ lấy ở hậu môn thường cao hơn lấy ở miệng 0,25oC – 0,5oC, và cao hơn ở lấy ở nách 0,5oC – 1oC.
Vì vậy, nhiệt độ lấy ở hậu môn là tốt nhất vì phản ánh sát với nhiệt độ nội tạng. Nhiệt độ lấy ở nách người bình thường sau khi nằm nghỉ 30 phút nằm trong khoảng 36oC – 36,8oC, sau đó người ta phải cộng thêm vào 0,5oC để xác định thân nhiệt. Thân nhiệt chênh lệch trong khoảng 3,5oC so với thân nhiệt bình thường (nghĩa là khoảng 33oC – 40oC) thì chưa gây nguy hiểm cho tính mạng.
Ở trẻ em khi thân nhiệt cao tới 41oC thường xảy ra co giật, và não sẽ bị tổn thương không hồi phục khi thân nhiệt lên đến 42,2oC (do làm biến chất protein, làm rối loạn chức năng các enzym). Khi thân nhiệt tụt xuống 32,8oC thì xuất hiện tình trạng hôn mê, khi thân nhiệt xuống tới 28,5oC thì xảy ra rối loạn nhịp tim (rung nhĩ chậm), nếu thân nhiệt thấp hơn nữa có thể gây rung thất và ngừng tim.
Theo vietbao
7 loại thực phẩm thân thiện trong ngày đèn đỏ
Chữa đau bụng và đầy hơi trong những ngày "đèn đỏ" chỉ nhờ các loại thực phẩm quen thuộc là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.
Những thực phẩm sau sẽ giúp bạn cảm thấy tốt hơn cả về thể chất lẫn tâm trạng trong ngày kinh nguyệt.
1. Ngũ cốc nguyên hạt
Ăn ngũ cốc cả tháng cũng rất tốt, nhưng nó đặc biệt có nhiều lợi ích cho phụ nữ trong chu kỳ kinh nguyệt. Các loại ngũ cốc nguyên hạt như yến mạch, lúa mì cung cấp cho cơ thể rất nhiều vitamin B, vitamin E, có tác dụng cân bằng tâm lý, giảm mệt mỏi và tính khí thất thường. Ăn ngũ cốc nguyên hạt một giờ trước khi đi ngủ cũng có tác dụng giảm các triệu chứng như đau bụng hay chuột rút về đêm.
2. Dứa
Dứa có lợi cho người phụ nữ trong chu kì nguyệt san bởi lẽ nó có thể điều hòa dòng chảy kinh nguyệt. Trong dứa cũng chứa một loại enzyme được gọi là bromelain giúp thư giãn cơ bắp.
3. Các loại đậu
Đậu lăng, đậu xanh, đậu Hà Lan và các loại đậu khác là một sự lựa chọn tuyệt vời cho bữa ăn trưa hoặc ăn tối trong những ngày bạn đang bị "cấm vận". Thực phẩm họ đậu rất giàu chất xơ nên rất tốt cho việc giảm xung huyết và hạn chế giữ nước trong cơ thể bằng cách loại trừ các chất lỏng dư thừa. Các loại đậu cũng giàu vitamin B và có thể giảm các triệu chứng kinh nguyệt.
4. Sữa chua
Có nhiều lợi ích khi ăn sữa chua trong những ngày có kinh nguyệt, bởi vì các vi khuẩn (tất cả đều tốt) bên trong sữa chua có tác dụng điều hòa hệ thống tiêu hóa. Hơn nữa, sữa chua còn giàu canxi giúp giảm đau bụng kinh và khó chịu. Tuy nhiên, không nên ăn quá nhiều sữa chua vì nó có axit arachidonic có thể góp phần gây ra chuột rút.
5. Bông cải xanh và họ nhà cải
Họ nhà cải là những siêu thực phẩm chứa nhiều chất chống oxy hóa và vitamin các loại. Bên cạnh đó, chúng cũng chứa rất nhiều canxi nên rất tốt cho người phụ nữ, đặc biệt trong việc giảm nhẹ đau bụng kinh.
6. Dầu hạt lanh
Dầu hạt lanh có hàm lượng axit béo omega (EFAs) cao và là một sự lựa chọn tuyệt vời cho những phụ nữ muốn được khỏe mạnh trong ngày "đèn đỏ". Các EFAs có tác dụng giúp đỡ hình thành prostaglandin - chất sinh học do cơ thể tự tổng hợp có hiệu quả giảm chuột rút.
7. Nước
Điều quan trọng nhất là hãy chắc chắn uống đủ nước trong suốt chu kỳ kinh nguyệt của bạn. Nước vào cơ thể sẽ chống được sự đầy hơi và giảm giữ nước, hạn chế đau nhức, chuột rút, và các triệu chứng kinh nguyệt khác. Nếu bạn không uống đủ nước, cơ thể của bạn có thể giữ lại quá nhiều chất lỏng không cần thiết khiến bạn trì trệ và mệt mỏi.
Theo vietbao
Các thực phẩm giúp giảm đau tự nhiên Ngồi lâu, áp lực công việc và cuộc sống, thiếu vận động...thường khiến cơ thể chúng ta cảm thấy đau đớn, dễ gây các bệnh tật, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Mách bạn 8 loại thực phẩm tự nhiên dưới đây không chỉ giúp giảm đau, còn mang lại lợi ích cho sức khoẻ. Ngũ cốc (ngô, kê, nếp cẩm, cao lương,...