Gửi tình yêu thương vào mùa giáp hạt
Hơn 30 năm gắn bó với sự nghiệp trồng người thì cũng là từng ấy năm cô giáo Nguyễn Thị Duyên, Trường Tiểu học Muổi Nọi, huyện Thuận Châu ( Sơn La) giảng dạy tại trường vùng 3 – vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La.
Cô giáo Nguyễn Thị Duyên (trái) và đồng nghiệp bên học trò trong chương trình Rung chuông vàng. Ảnh nhân vật cung cấp
Thấu hiểu hơn ai hết cảnh nghèo khó, vất vả của học sinh vùng cao, cô đã chắt chiu, tiết kiệm từ khoản thu nhập của gia đình để hàng năm hỗ trợ gạo, cứu đói cho các em học sinh trong trường.
Chở gạo cứu đói mùa giáp hạt
Ra trường năm 1987, cô Duyên về công tác ở Trường Tiểu học Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La. Từ năm 2001 cô chuyển công tác về Trường Tiểu học Muổi Nọi, huyện Thuận Châu.
Muổi Nọi khi ấy có khoảng 300 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Mỗi khối 2 lớp. Sĩ số lớp từ 20 – 35 em. Ở đây, cứ đến mùa giáp hạt, các em phải bỏ học lên nương nên số học sinh cứ giảm dần theo ngày tháng. Tình trạng này liên tục xảy ra trong nhiều năm qua khiến các nhà quản lý giáo dục không khỏi đau đầu. Hầu hết các thầy cô và Ban Giám hiệu nhà trường luôn trong tình trạng” đứng ngồi không yên” vì thực trạng này đã trở thành nỗi lo, là bài toán nan giải.
Những lần đến thăm nhà học sinh mùa giáp hạt, trong lòng cô Duyên không khỏi xót xa. Nhiều em học sinh phải ăn cơm độn ngô, độn sắn, thậm chí còn chẳng có cơm độn mà ăn. Cái đói hiển hiện khắp nơi, trong những ngôi nhà trống tăm tối, trong lớp học và trên những gương mặt gầy gò, xanh xao của các em thơ trên khắp các miền núi cao khiến cho tháng Ba ở đây như dài vô tận…
Thương học trò, cô Duyên trăn trở phải làm gì đó để giúp các em học sinh, để con đường đến với con chữ của học trò nghèo nơi đây không bị gián đoạn, bớt gian nan, gập ghềnh hơn.
Năm 2004, cô Duyên đã bàn bạc với gia đình trích một phần thu nhập để giúp đỡ các em. Không ngờ, chồng cô rất tán thành và ủng hộ quyết định của cô. Từ năm 2004 – 2009, cứ vào tháng 3 hàng năm – tháng thường xuyên xảy ra đói giáp hạt, vợ chồng cô lại cho xe chở một tấn gạo lên Muổi Nọi giúp đỡ các em học sinh trong trường. Số gạo này cô đã chia ra thành hơn 200 trăm suất quà, tương ứng với số học sinh nghèo của trường.
Một món quà tuy không lớn nhưng vô cùng ý nghĩa trong những ngày đói giáp hạt. Quan trọng hơn, từng hạt gạo trắng trong, thơm thảo còn chứa đựng cả tấm lòng bao dung, chia sẻ và tình yêu thương của gia đình cô giáo Duyên. Tình cảm đó cũng đủ lớn để các bậc phụ huynh học sinh cảm nhận được, từ đó động viên con em mình đến trường đều đặn hơn, quan tâm tới việc học của con cái hơn.
Cô Duyên tâm sự, nhìn những ánh mắt trong veo của các em học sinh, những khuôn mặt còn lấm lem bụi đất vẫn rạng rỡ nụ cười hồn nhiên khi đón nhận món quà nhỏ khiến trong lòng cô trào dâng niềm hạnh phúc, thương mến.
Khơi dậy ngọn lửa yêu thương
Việc làm của cô giáo Duyên đã khơi dậy ngọn lửa yêu thương trong lòng các thầy cô giáo trong nhà trường. Chi bộ, Ban Giám hiệu nhà trường đã đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm ngăn chặn học sinh bỏ học, giúp đỡ các em học sinh nghèo trong mùa giáp hạt. Nhiều tấm chăn, quần áo, sách vở, đồ dùng học tập và cả những thùng mì tôm… của các thầy cô giáo trong nhà trường được trao tặng cho các em.
Không những thế, cô Duyên cùng các đồng nghiệp của mình đã đến từng bản, gặp gỡ từng nhà, rà từng học sinh để vận động phụ huynh cho con em mình ra lớp. Gia đình học sinh ở vùng cao còn nhiều khó khăn, cái ăn chưa đủ nên không phải phụ huynh nào cũng coi trọng việc học. Nhờ được tuyên truyền, nhiều người dân đã dần hiểu được tầm quan trọng của việc học chữ, giúp con em họ có kiến thức để sau này có cơ hội thoát nghèo.
Video đang HOT
Sự tâm huyết của cô và các đồng nghiệp đã được nhiều người dân thấu hiểu và ghi nhận. Tình cảm ấy đã lay động suy nghĩ của nhiều bậc phụ huynh học sinh. Nhiều gia đình dù hoàn cảnh khó khăn đã có ý thức cho con đến trường không nỡ bắt các em ở nhà lao động, quan tâm hơn, nhắc nhở các em đến trường nhiều hơn…
Những nỗ lực trong việc “gieo” con chữ cho học sinh vùng cao của cô giáo Duyên và nhà trường đã được bù đắp xứng đáng. Nếu như những năm trước, mỗi năm số học sinh Trường Tiểu học Muổi Nọi bỏ học lên tới mấy chục em, thì từ năm 2005 con số này ngày càng giảm dần. Năm học 2008 – 2009, cả trường chỉ còn 1 học sinh bỏ học. Đến nay, hàng năm trường không còn học sinh nào bỏ học nữa. Trong thành quả chung đó có đóng góp không nhỏ của cô Duyên. Cô giáo Duyên đã cùng với các đồng nghiệp giúp học sinh vượt qua những ngày tháng gian khổ, đói rét, thiếu thốn để giờ đây nhà trường là nơi thu hút con em dân tộc thiểu số vùng cao hăm hở đến lớp.
Cô giáo Nguyễn Thị Duyên trở thành nhân vật trong bài viết “Những hạt gạo thơm mùa giáp hạt” của tác giả Nguyễn Thanh Bình, Trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đạt giải Nhì trong cuộc thi “Những kỉ niệm sâu sắc về thầy/cô và mái trường mến yêu” năm 2018 do Bộ GD&ĐT tổ chức.
Lê Đăng
Theo GDTĐ
Chuyện về những người giáo viên dũng cảm cõng chữ lên non
Chỉ có tận mắt nhìn thấy và lắng nghe những câu chuyện mới cảm nhận được khó khăn, gian khổ và cả sự hy sinh vì sự nghiệp "trồng người" của các giáo viên vùng cao.
Thầy giáo suýt mất mạng vì sự nghiệp giáo dục vùng cao
Xã An Lương, một trong những xã đặc biệt khó khăn của huyện Văn Chấn (Yên Bái) năm nào cũng hứng chịu 1, 2 trận lũ lớn.
Những ngày đó, tuyến đường đi vào xã đều bị nước lũ ồng ộc tràn về khiến cho việc tiếp cận và cứu hộ muôn vàn khó khăn.
Những người thầy, người cô cõng chữ lên non với bao vất vả, khó khăn. Ảnh: Giáo dục Việt Nam
Trong cơn lũ lớn, thầy Nguyễn Quang Diện - hiệu trưởng trường Tiểu học Dân tộc bán trú xã An Lương vẫn không sao quên được:
"Đường mòn nhỏ, một bên là núi, một bên là vực sâu. Ngày nắng ráo mất 3-4 tiếng đồng hồ đi từ huyện lỵ Văn Chấn.
Còn ngày mưa gió đường lầy như ruộng mạ, bùn ngập lưng vòng bánh xe, đi từ sáng đến chiều mới tới".
Trong ký ức của nhiều giáo viên và phụ huynh xã An Lương vẫn còn nhớ như in hình ảnh thầy Đồng Thành Chung vượt lũ, thoát khỏi tay tử thần trong gang tấc.
Thầy kể: "Có năm ngoái nước lũ lớn, tôi cố gắng vượt suối để đến trường. Vì đây là nhiệm vụ được giao và để các em nhỏ lại ở trường mình cũng không yên tâm.
Con nước lũ ồng ốc, xối xả và chảy rất mạnh. Mình đi đến giữa dòng thì dây thừng bị tuột. Cũng may bám được dây mà bơi sang dòng bên kia., thoát chết trong gang tấc".
Những nỗ lực vượt khó, hy sinh của các thầy cô đã mang lại trái ngọt ngành giáo dục vùng cao.
Từ những ngày đầu gian khó, cơ sở vật chất thiếu thốn, kinh tế khó khăn, dân trí của đồng bào còn thấp nên việc học hành của lũ trẻ bị hạn chế.
Trăn trở trước sự học của đồng bào dân tộc Mông, thầy Diện vận động giáo viên trong trường đốt đuốc mở các lớp xóa mù hoặc đi vận động phụ huynh cho con em đi học.
Có những gia đình cách xa trường đến 12 km đường rừng. Thầy cô cơm nắm muối vừng đốt đuốc đi đêm, tờ mờ sáng mới đến nơi.
Những chuyện đó... qua rồi. Bây giờ, nhắc đến trường Tiểu học Dân tộc bán trú xã An Lương là nhắc đến một trong những điểm sáng của giáo dục huyện Văn Chấn.
Thầy Diện nói: Trái ngọt đến từ việc uốn nắn, sát sao dạy dỗ các em học sinh như con mình. Ảnh: Giáo dục Việt Nam
Tại đây các em được thầy cô chăm hơn chăm con, được ăn, được mặc, được đến trường. Nhắc đến những thành công của trường An Lương, thầy Diện vẫn rất khiêm tốn.
Theo thầy, thành công này có sự tham gia và đóng góp của nhiều bên - nhà trường, phụ huynh, chính quyền địa phương, các chính sách của tỉnh và Nhà nước.
Thầy Diện nói: "Trước đây đã có mô hình trường bán trú dân nuôi với hình thức học sinh ở trọ, mỗi cuối tuần các em trở về nhà mang lương thực, thực phẩm, chất đốt lên để tự nấu ăn hoặc đóng góp với các hộ gia đình mà em ở trọ.
Mô hình tự phát đó cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu thực tiễn nhưng thiếu tính bền vững và phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế của mỗi địa phương, mỗi gia đình.
Từ năm 2012 trở lại đây, Nhà trường luôn huy động được 100% học sinh trong độ tuổi ra lớp; tỷ lệ chuyên cần luôn đạt trên 99%; cơ sở vật chất của nhà trường cơ bản đã đáp ứng được với hoạt động dạy học và nuôi dưỡng các em.
Đặc biệt kể từ năm 2016, Chính phủ ban hành "Nghị định 116/2016/NĐ-CP Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn"
Thành công cốt lõi của giáo dục xã An Lương nói riêng và giáo dục vùng cao nói chung không thể thiếu đi tấm lòng và sự nhiệt huyết của các giáo viên cắm bản.
Động lực gieo cái chữ xòa nhòa nỗi nhớ người thân
Cung đường 50km từ trung tâm huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) đến các trường, điểm trường của xã Trung Thành ngoằn ngoèo quanh co, dốc lên dựng đứng, dốc xuống thăm thẳm với những đá hộc gồ ghề, lởm chởm, cả những đoạn sình lầy, nhão nhoẹt, trơn trượt vì bùn đất. Đây cũng chính là con đường đến trường mà các thầy, cô giáo hàng ngày phải trải qua để ươm, gieo "mầm chữ".
Ngay tại trường mầm non khu trung tâm xã, có 6 giáo viên và đều là giáo viên nữ ở các xã, huyện lân cận, như: Ngọc Lặc, Quan Hóa... Quãng đường đến trường dù ngắn hay dài, họ đều phải leo lên những con dốc quanh co, khúc khuỷu, chạy xuyên rừng và vượt sông bằng đò tạm.
Dù vất vả, gian nan đến mấy nhưng tất cả các cô đều có một điểm chung duy nhất - đó là lòng yêu nghề. Ảnh: Báo Thanh Hóa
Nối giữa điểm trường với trung tâm xã là con đường độc đạo. Mỗi khi có việc xuống xã, các cô gần như vật lộn với gần 10km đường rừng. Mùa khô, bụi cuốn mịt mù. Mùa mưa thì thật là cơn ác mộng. Đường vừa dính vừa nhão như mỡ gà, bánh xe phải quấn xích mới chạy được. Con đường dài gần 10 km đã không ít lần chứng kiến cảnh cô giáo mắc kẹt giữa chừng, đi không được, lùi chẳng xong, uất ức đến chảy nước mắt. Có cô vì đường khó đi quá phải bỏ cuộc, vứt cả xe ở vệ đường rồi đi bộ lên trường, hôm sau trời nắng ráo mới quay lại lấy xe.
Có thâm niên gần 14 năm dạy học ở điểm trường lẻ, cô Kim đã quá quen với sự vất vả khi sống ở núi rừng. Đêm dài thì cũng chỉ biết chui vào chăn, nằm nhìn trần nhà, nghĩ miên man về con, về chồng - nỗi nhớ con dài như những đêm đông biên giới.
Năm 2006, cô Kim nên duyên vợ chồng với một thầy giáo cùng quê và có một cậu con trai nay đã 11 tuổi. Đi dạy trên rừng, cô đành phải gửi con cho ông bà nội nuôi ở dưới huyện Ngọc Lặc. Hai vợ chồng dạy xa nhau, một tháng, có khi hai, ba tháng mới được về thăm con.
Cô Kim chia sẻ: "Bắt chuyến xe về nhà với con cũng coi như là hết một ngày. Thời gian đầu, con được gần 1 tuổi, tôi phải tiếp tục đi dạy. Có khi mẹ đi vài tháng, về nhà con trai quên mất mặt mẹ, bế không theo, cứ khóc đòi bà. Lúc đó thấy tủi trong lòng. Dỗ dành mãi nó quen hơi được một đêm thì hôm sau lại phải xa con lên trường. Đêm nào nằm ngủ, cũng mơ thấy giọng con gọi "Mẹ Kim ơi!, mẹ Kim ơi!".
Thế nhưng, khi được hỏi về động lực bám bản, gieo chữ, cô Kim lau nước mắt cười, nhìn các em thấy thương lắm, vẫn vô tư cười nói suốt ngày nhưng đâu có hiểu được tương lai vất vả ra sao. Có lúc cũng nản chí lắm, lúc con ốm, lúc mưa bão, lúc mình ốm đau... chỉ muốn bỏ lại tất cả để về dưới xuôi. Nhưng rồi các trò lại tặng cô bông hoa dại, tặng cây măng rừng, bó củi, mong cô nhanh khỏi ốm, lại thấy vui trong lòng. Dẫu biết khắc nghiệt nhưng vẫn không thể bỏ nghề được.
Quả thực, có tận mắt nhìn thấy và lắng nghe những câu chuyện mới cảm nhận được những khó khăn, gian khổ và cả sự hy sinh vì sự nghiệp "trồng người" của các cô giáo vùng cao. Dù vất vả, gian nan đến mấy nhưng tất cả các cô đều có một điểm chung duy nhất - đó là lòng yêu nghề.
Các cô chia sẻ rằng, dân bản sống tình cảm lắm! những tình cảm chân thành đó như tiếp thêm động lực níu chân họ lại, thôi thúc họ làm điều gì đó để giúp nơi vùng cao này bớt khó khăn. Luôn tâm niệm như vậy và mỗi sáng thức dậy, họ lại vội vàng gác lại hết những công việc gia đình để tiếp tục sự nghiệp cõng chữ "lên miền non cao".
Minh Khôi (T/h)
Theo doisongphapluat
Để năm học mới an toàn và hiệu quả! Sau những tháng nghỉ hè, một năm học mới sắp bắt đầu. Cùng với tiếng trống trường giục giã đầy náo nức và hy vọng, là những lo ngại về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, tiêu cực trong thi cử, bạo lực học đường... Ngày khai trường luôn là những kỷ niệm đẹp với mỗi học sinh. (Ảnh minh họa: vov.vn)...