GS.TS Lê Ngọc Thạch góp ý về phiên dịch các thuật ngữ Hóa học
GS.TS Lê Ngọc Thạch – nguyên giảng viên Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
GDVN- GS.TS Lê Ngọc Thạch cho rằng không nên viết tắt khi phiên dịch thuật ngữ khoa học, trong đó bao gồm cả những thuật ngữ ngành Hóa học.
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Ngọc Thạch – nguyên giảng viên Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh)
Tôi xin nhấn mạnh góp ý phiên dịch này là chỉ trong thuật ngữ “Hóa học” và những từ có liên quan. Chủ yếu là nhằm xin tránh viết tắt trong thuật ngữ khoa học.
Vì sao? Vì Hóa học là một môn học du nhập hoàn toàn. Do đó, muốn có thuật ngữ tiếng Việt để sử dụng là phải phiên dịch, không thể tự tiện và duy ý chí áp đặt một chiều, không kể đến chiều ngược lại khi muốn dịch, từ tiếng Việt ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp chẳng hạn, sẽ gặp khó khăn.
Thuật ngữ nếu phiên dịch không chuẩn, nhưng lại phổ biến cho nhiều người sử dụng dễ dẫn đến cái sai ở diện rộng, dùng thuật ngữ sai như một thói quen, thì không nên, nhất là với người trong ngành giáo dục, sư phạm lại càng phải tránh!
Tôi xin trình bày cách phiên dịch do cố Giáo sư hóa học Lê Văn Thới có mở rộng, với những đề nghị phiên dịch (Anh/Pháp/Việt) như sau:
Ở đây, trước tiên xin hiểu một số quy ước:
n: chữ Nôm
h: chữ Hán
Trong tiếng Pháp có danh từ giống đực và giống cái. Vậy:
f: féminin, giống cái
m: masculin, giống đực
a: adjectif, tính từ
Như vậy, cách phiên dịch sẽ là:
Về chữ “hóa học” có:
chemistry/chimie (f)/hóa học
chemical/chimique (a)/thuộc về hóa học
chemist/chimiste (m)/hóa học gia (h), nhà hóa học (n)
chemo-/chimio-/tiếp đầu ngữ chỉ hóa-
Vì vậy nên phiên dịch một cách đầy đủ là:
applied chemistry/chimie appliquée/hóa học ứng dụng (n)
flavour chemistry/chimie des saveurs/hóa học (về) vị (n)
flow chemistry/chimie des écoulements/hóa học dòng chảy (n)
green chemistry/chimie verte/hóa học xanh (n)
inorganic chemistry/chimie inorganique/hóa học vô cơ (n). Không nên viết tắt là “hóa vô cơ”!
marine chemistry/chimie marine/hóa học (về) biển (n)
materials chemistry/chimie des matériaux/hóa học vật liệu (n)
microwave chemistry/chimie des micro-ondes/hóa học vi sóng (n)
Video đang HOT
natural product chemistry/chimie des produits naturels/hóa học sản phẩm thiên nhiên (n)
nuclear chemistry/chimie nucléaire/hóa học hạch tâm (n)
organic chemistry/chimie organique/hóa học hữu cơ (n). Không nên viết tắt là “hóa hữu cơ”!
organometallic chemistry/chimie organométallique/hóa học hữu cơ kim loại (n)
polymer chemistry/chimie des polymères/hóa học đa phân (n)
pure chemistry/chimie pure/hóa học thuần túy (n)
solid-state chemistry/chimie du solide/hóa học chất rắn (n)
supramolecular chemistry/chimie supramoléculaire/hóa học cao phân tử (n)
synthetic chemistry/chimie de synthèse/hóa học tổng hợp (n)
Xin tiếp tục:
analytical chemistry/chimie analytique/hóa học phân giải (n). Không nên viết tắt là “hóa phân tích”! Chữ “phân tích” nên dùng để phiên dịch cho decomposition/décomposition. Thí dụ như conformational analysis được dịch là sự phân giải cấu trạng.
combinatorial chemistry/chimie combinatoriale/hóa học tổ hợp (n)
enviromental chemistry/chimie de l’environnement/hóa học môi trường (n)
general chemistry/chimie générale/hóa học đại cương (n). Không nên viết tắt là “hóa đại cương”!
industrial chemistry/industrielle chimie/hóa học kỹ nghệ (n)
material chemistry/chimie des matériaux/hóa học vật liệu (n)
physical chemistry/chimie physique/hóa học vật lý (n). Không nên viết tắt là “hóa lý”.
Vì chúng ta đang hiểu Toán-Lý-Hóa là viết tắt thay cho Toán học-Vật lý-Hóa học. Thật ra chữ “lý”, trong Vật lý, lại có nghĩa là “nguyên lý” trong tiếng Hán-Việt. Theo Hán Việt từ điển của tác giả Đào Duy Anh, trang 544, “vật lý” là: khảo sát các nguyên lý về vật chất; chữ “lý” này cũng có mặt trong địa lý, sinh lý, luận lý, … Như vậy, “lý” không có ý nghĩa rõ ràng như toán học và hóa học, nếu chỉ đứng riêng một mình.
theoretical chemistry/chimie théorique/hóa học lý thuyết (n)
toxicological chemistry/chimie toxicologique/hóa học chất độc (n)
Riêng còn:
medicinal chemistry/chimie médical/hóa học y dụng (n)
pharmaceutical chemistry/chimie pharmaceutique/hóa học dược dụng (n)
Xin tiếp tục, lưu ý nên tránh viết ngược và viết tắt:
argochemistry/argochimie/nông hóa học (h), nông hóa (viết tắt), hóa nông (viết ngược)
biochemistry/biochimie/sinh hóa học (h)
electrochemistry/électrochimie/điện hóa học (h), điện hóa (viết tắt)
femtochemistry/femtochimie/hóa học femto (n)
geochemistry/géochimie/địa hóa học (h), địa hóa (viết tắt)
immunochemistry/immunochimie/hóa học miễn dịch (n)
mechanochemistry/mécanochimie/cơ hóa học (h)
neurochemistry/neurochimie/hóa học thần kinh (n)
petrochemistry/pétrochimie/hóa học dầu mỏ (n) (theo nghĩa bóng), còn nghĩa đen là “thạch hóa học” (h), vì tiếng Hy lạp petros có nghĩa là “đá” (rock, stone)
photochemistry/photochimie/quang hóa học (h), quang hóa (viết tắt)
phytochemistry/phytochimie/thảo hóa học (h)
radiochemistry/radiochimie/hóa học phóng xạ (n)
sonochemistry/sonochimie/âm hóa học (h)
stereochemistry/stéréochimie/hóa học lập thể (n)
thermochemistry/thermochimie/nhiệt hóa học (h)
Xin tiếp:
chemical biology/biologie chimique/sinh học hóa học (n), khác với “sinh hóa học”
Phân tích sự khác nhau giữa chemical biology (sinh học hóa học) và biochemistry (sinh hóa học)
chemical industry/industrie chimique/kỹ nghệ hóa học (n)
chemical kinetic/cinétique chimique/động học hóa học (n), động hóa học (viết tắt)
chemical product/produit chimique/sản phẩm hóa học (n)
Với nhóm tiếp đầu ngữ:
chemoinformatic/chimioinformatique/hóa tin học, hóa tin (viết tắt)
chemoluminescence/chimioluminescence/hóa phát quang
chemolysis/chimiolyse/hóa giải
chemotherapy/chimiothérapie/hóa trị liệu
chemoautotrophy/chimioautotrophie/hóa tự dưỡng
chemoprevention/chimioprévention/hóa ngăn ngừa
chemoattraction/chimioattraction/hóa hấp dẫn
chemoselectivity/chimiosélectivité/hóa chọn lọc
chemosensor/chimiosensor/hóa cảm biến
chemospecific/chimiospécifique/(thuộc về) hóa biệt tính
chemosynthesis/chimiosynthèse/hóa tổng hợp
chemotaxonomy/chimiotaxanomie/hóa trị liệu
chemotype (chemovar)/chimiotype/hóa phân kiểu
Phiên dịch theo tiếng Hán-Việt, thì viết tính từ trước chủ từ, giống như tiếng Anh. Thí dụ: quang hóa học, thảo hóa học.
Phiên dịch theo tiếng Nôm, thì viết tính từ ở phía sau chủ từ. Thí dụ: hóa học lập thể, hóa học biển.
Cả hai cách viết đều đúng, nếu có thể ngắn gọn mà vẫn đầy đủ ý nghĩa, xin viết theo tiếng Hán-Việt, để tránh lập lại chữ “học” trong một số trường hợp.
Mỗi sách đọc 1 kiểu, vậy có cần bắt HS đọc tên nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh?
Khi trình độ tiếng Anh của học trò đạt trình độ 'tích hợp' được với Hóa học, tự khắc học sinh sẽ đọc được, đó mới thật sự là tích hợp.
Từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông 2018, các môn học mang tên "tích hợp" đã nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều của dư luận.
Bài viết "GV giỏi Vật lý giờ dạy thêm Hóa-Sinh, lo lắng khi HS hỏi đành tính nghỉ hưu non" của tác giả Sơn Quang Huyến đăng tải trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam vừa qua đã được sự quan tâm của giáo viên trên cả nước.
Rất nhiều hội nhóm giáo viên môn Khoa học tự nhiên đã chia sẻ trên mạng xã hội và có nhiều bình luận chia sẻ sự đồng cảm với bài viết.
Có nên bắt buộc dạy học sinh lớp 7 đọc tên nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh?
Người viết đã trao đổi với một số giáo viên đang dạy tiếng Anh về việc "Có nên dạy học sinh lớp 7 đọc tên nguyên hóa học bằng tiếng Anh?", phần lớn đều trả lời là: không nên, không cần.
Một thầy giáo tiếng Anh tại Bà Rịa - Vũng Tàu chia sẻ: "Ngay bản thân tôi là giáo viên dạy tiếng Anh hơn 30 năm, nay đọc tên nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn mà anh hỏi cũng không dám chắc đọc đúng ngữ pháp.
Vậy làm sao giáo viên Sinh học, Vật lý, đọc đúng tên các nguyên tố bằng tiếng Anh? Kể cả giáo viên Hóa học được đào tạo chính quy, trong các trường sư phạm không hướng dẫn đọc tên các nguyên tố bằng tiếng Anh, khó mà đọc đúng.
Tên nguyên hóa học bằng tiếng Anh thuộc thuật ngữ chuyên ngành Hóa học, vì vậy, giáo viên dạy tiếng Anh đọc không đúng là điều bình thường".
Dạy học sinh đọc tên nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh cho đúng khi kiến thức tiếng Anh của các em chưa đủ để hiểu môn Hóa học có nên chăng?
Theo ý kiến người viết là không nên, không cần dạy học sinh trung học cơ sở đọc tên nguyên hóa học bằng tiếng Anh.
Thứ nhất, dạy học sinh đọc tên nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh, giáo dục đang tạo khoảng cách giữa bộ môn Hóa học với thực tế cuộc sống.
Phần lớn các nguyên tố hóa học hay gặp trong cuộc sống đã được "Việt hóa" như Cu (đồng), Fe (sắt), Pb (chì), Ag (Bạc), Ca (canxi), Au (vàng), Zn (kẽm) ... nay học sinh dùng tiếng Anh để đọc, còn đâu liên hệ với thực tế cuộc sống?
Thứ hai, ngay trong 3 bộ sách được Bộ phê duyệt, mỗi bộ sách lại có cách đọc tên nguyên tố khác nhau, lấy đâu ra chuẩn mực để đánh giá?. Ví dụ có sách lúc thì ghi "sodium, potassium, iron, aluminium", lúc thì ghi "natri, kali, sắt, nhôm".
Thứ ba, sách Khoa học tự nhiên lớp 7 dạy học sinh đọc nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh, thế nhưng rất nhiều kiến thức trong chương trình 2018 vẫn dùng phiên âm để đọc tên các quốc gia, địa danh, mỏ khoáng sản ...
Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lý 7 bộ Chân trời sáng tạo vẫn dùng cách đọc tên nguyên tố hóa học như trước đây - Ảnh: Nhật Minh
Người viết lấy ví dụ cụ thể trong môn Lịch sử và Địa lý 7 bộ sách Chân trời sáng tạo của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Khi gọi tên các quốc gia trên thế giới, tên mỏ khoáng sản Fe, Cu, Al ... đều dùng nguyên vẹn tên phiên âm hoặc tên gọi nguyên tố theo chương trình cũ.
Trong sách Lịch sử và Địa lý 7 bộ sách Chân trời sáng tạo, bài 3 "Phương thức con người khai thác và sử dụng ở châu Âu", trang 107 có ghi rõ:
" Trước đây, hoạt động giao thông vận tải (đường bộ, hàng không, đường biển ...), hoạt động sản xuất nông nghiệp, sản xuất điện, sinh hoạt của hộ gia đình, sản xuất nông nghiệp thải ra một lượng đáng kể chất gây ô nhiễm không khí ở châu Âu: nitơ điôxít (NO2), amôniac (NH3)...".
Trong cùng một bộ sách nhưng các môn học khác nhau có cách đọc tên nguyên tố hóa học khác nhau, sẽ làm học sinh loạn.
Thứ tư, với chương trình trung học cơ sở chỉ mới dừng lại giáo dục cơ bản chứ chưa phải là giáo dục chuyên sâu, nên sử dụng cách đọc cũ là phù hợp.
Thứ năm, giữ nguyên cách đọc cũ sẽ có nhiều thuận lợi trong dạy và học, bên cạnh đó giữ được sự trong sáng của tiếng Việt.
Tất cả văn bản khi viết về các vấn đề liên quan nguyên tố hóa học đều đã dùng cách đọc cũ, ví dụ đã được "Việt hóa" như Cu (đồng), Fe (sắt), Pb (chì), Ag (Bạc), Ca (can xi), Au (vàng), Zn (kẽm)...
Người viết cho rằng, việc đọc tên nguyên tố hóa học bằng tiếng Anh không cần dạy từ lớp 7, khi trình độ tiếng Anh của học trò đủ "tích hợp" được với Hóa học, tự khắc học sinh sẽ đọc được, đó mới thật sự là tích hợp.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Trao 200 suất học bổng cho sinh viên, học sinh vượt khó, học tốt Ngày 16/9, tại Thành phố Hồ Chí Minh, NovaGroup đã trao 200 suất học bổng (mỗi suất trị giá 5.000.000 đồng) đến các sinh viên, học sinh Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vượt khó, học tốt trong năm học 2021-2022. Sinh viên, học sinh Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vượt khó, học tốt năm học...