Giáo dục Yên Bái 30 năm đổi thay đáp ứng yêu cầu phát triển
GD&ĐT tỉnh Yên Bái sau 30 năm tái lập tỉnh đã có nhiều khởi sắc, xây dựng trường học hạnh phúc, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới – nhà giáo Vương Văn Bằng, Giám đốc Sở GD&ĐT, chia sẻ.
Đ/c Đỗ Đức Duy – Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái trao quà cho các em HS Trường Phổ thông dân tộc bán trú TH&THCS Bản Công, huyện Trạm Tấu trong lễ khai giảng năm học 2021 – 2022.
Quyết tâm tạo sự đổi thay
Nhà giáo Vương Văn Bằng, Giám đốc Sở GD&ĐT nhớ lại: Ngày 1/10/1991, tỉnh Yên Bái được tái lập theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII. Ở thời điểm mới tái lập tỉnh, đời sống của nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn; hệ thống giáo dục, quy mô, mạng lưới trường, lớp còn nhiều bất cập.
Năm học 1991-1992, toàn tỉnh có 340 trường, trên 5.100 lớp, trên 125.000 học sinh, trên 8.100 giáo viên, trên 4.000 phòng học, trong đó hơn 60% là phòng học tạm; 62 xã trắng về GD mầm non.
Đ/c Vương Văn Bằng trao quyết định chuyển công tác về miền xuôi cho các GV hoàn thành tốt nhiệm vụ ở miền núi
Khó khăn chồng chất khó khăn, điều kiện địa lý, khí hậu, hạ tầng cơ sở cùng với rào cản về phong tục tập quán của người dân tộc khiến tỷ lệ huy động trẻ đến trường thấp (số trẻ ra lớp học đúng độ tuổi bậc tiểu học chỉ đạt 68%); Tỷ lệ học đi học chuyên cần rất thấp, số học sinh bỏ học cao (cấp tiểu học là 12%, cấp trung học là 22,6%; cấp trung học phổ thông là 14,2%). Toàn tỉnh lúc này chỉ có 4 trường phổ thông dân tộc nội trú (1 trường THPT, 3 trường THCS ở các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu và Mù Cang Chải).
Từ đồng bằng đến miền núi, các thầy cô giáo đã đang gắng sức hoàn thành nhiệm vụ người chiến sĩ trên mặt trận GD. Họ nỗ lực tạo sự đổi thay, xây dựng trường học hạnh phúc, đưa GD chất lượng tới từng thôn bản. GD dân tộc đang xóa dần khoảng cách miền ngược và vùng xuôi. Chất lượng GD toàn diện đã và đang làm đổi thay để GD&ĐT Yên Bái vươn tới tấm cao mới – Giám đốc Vương Văn Bằng
Quán triệt quan điểm GD&ĐT là quốc sách hàng đầu; thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, GD&ĐT Yên Bái đã có bước phát triển vượt bậc.
Sau mỗi nhiệm kỳ đại hội, sau mỗi năm học, GD&ĐT Yên Bái đều có sự tiến bộ, đổi mới, mạng lưới trường lớp, quy mô GD phát triển, chất lượng giáo dục được nâng lên, giáo dục vùng cao, vùng đồng bào dân tộc, giáo dục mũi nhọn được trú trọng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Diện mạo mới cho GD-ĐT
Nhà giáo Vương Văn Bằng vui vẻ cho biết: Gian khó đã dần lùi bước, đến nay mạng lưới trường, lớp học, quy mô từ GDMN, GDPT, GDTX, giáo dục nghề nghiệp đã phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân trong tỉnh. Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, Yên Bái đã thực hiện Đề án sắp xếp quy mô, mạng lưới trường lớp đối với GDMN, GDPT giai đoạn 2016-2020, hệ thống trường lớp được sắp xếp phù hợp, tinh gọn và hiệu quả; tạo điều kiện để học sinh được học tập tại điểm trường chính, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Các thầy cô giáo đã và đang nỗ lực tạo sự đổi thay cho GD vùng dân tộc ở Yên Bái
Video đang HOT
Chất lượng GD toàn diện từng bước được nâng lên. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT, tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường ĐH liên tục tăng cao; nhiều học sinh đã đỗ thủ khoa trong các kỳ thi tuyển sinh vào ĐH,CĐ. Công tác GD mũi nhọn được nâng cao về số lượng, chất lượng và phát triển bền vững. Năm 2015, Yên Bái có 1 học sinh đạt giải trong kỳ thi Olympic Vật lý Châu Á; năm 2019, có 1 học sinh đoạt huy chương Bạc trong kỳ thi Olympic Hoá học Quốc tế. Năm học 1991-1992 có 4 giải học sinh giỏi THPT cấp quốc gia, năm học vừa qua tăng lên 26 giải.
GIám đốc Vương Văn Bằng đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của động ngũ những người đang thực hiện nhiệm vụ trồng người. Cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, GV có trình độ chuyên môn, có ý thức tự học, có đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao và tâm huyết với nghề đáp ứng yêu cầu đổi mới GD. Làm tốt công tác XHHGD để huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển GD. Đồng thời huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển GD, khuyến khích phát triển cơ sở GD ngoài công lập.
Công tác giáo dục dân tộc có những chuyển biến mạnh mẽ. Chất lượng giáo dục dân tộc, vùng cao được nâng lên rõ rệt. Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được duy trì, nâng cao chất lượng theo hướng bền vững. Công tác phân luồng học sinh luôn được triển khai có hiệu quả, hàng năm, trên 20% học sinh tốt nghiệp THCS, 40% học sinh tốt nghiệp THPT vào học trung cấp, học nghề, cao đẳng, góp phần tạo nguồn đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Những nhiệm vụ đặt ra
Nhà giáo Vương Văn Bằng cho rằng: Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra, đưa GD&ĐT phát triển bền vững lên tầm cao mới, trước hết, phải làm tốt công tác tham mưu với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển GD&ĐT phù hợp với thực tiễn của địa phương. Thực hiện tốt công tác phối hợp, tạo sự đồng thuận của nhân dân, huy động sự vào cuộc của toàn xã hội chăm lo cho phát triển GD.
Trong một lần đi vận động học sinh ra lớp của các thầy giáo Trường TH&THCS bán trú số 2 Hồng Ca, huyện Trấn Yên
Tiếp đến là thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền trong đội ngũ cán bộ quản lý, GV, nhân viên, học sinh, học viên về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về GD&ĐT; triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải gắn với các phong trào thi đua, các cuộc vận động của ngành. Tạo sự đồng thuận và quyết tâm đổi mới nâng tâm GD&ĐT cho quê hương Yên Bái.
Tới đây, Yên Bái sẽ tiếp tục sắp xếp quy mô, mạng lưới trường lớp theo hướng hợp lý, tinh gọn, hiệu quả. Tiếp tục nâng cao chất lượng GD toàn diện; trú trọng phát triển GD dân tộc, GD vùng cao, GD mũi nhọn; thực hiện tốt chương trình GDPT 2018; thực hiện việc phân luồng GDPT theo lộ trình hợp lý tạo nguồn đào tạo nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh.
Đồng thời tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy; tích cực chuyển đổi số, xây dựng trường học thông minh, GD thông minh gắn với đô thị thông minh của tỉnh.
Nhà giáo Vương Văn Bằng cho rằng, sự quan tâm đầu tư của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nỗ lực to lớn của các thầy cô giáo, cùng sự chung tay góp sức của các tổ chức đoàn thể xã hội và người dân đã làm nên diện mạo mới của GD&ĐT tỉnh Yên Bái.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đã được tỉnh quan tâm gắn với kế hoạch xây dựng nông thôn mới. Đội ngũ cán bộ quản lý, GV các bậc học được quan tâm xây dựng cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất trường, lớp học tiếp tục được đầu tư theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa. Toàn tỉnh đã làm tốt công tác xã hội hóa GD; công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo nên phong trào sâu rộng toàn dân tham gia làm GD.
Cô giáo 19 năm bám bản, ngày đêm mang con chữ đến với học trò
Để đảm bảo được kiến thức cho học trò trong thời gian chống dịch, cô giáo Đỗ Thị Nhàn cùng các đồng nghiệp đã đi đến tận các bản giao bài tập.
Vì yêu thương mà gắn bó
19 năm qua, cô giáo Đỗ Thị Nhàn, tổ trưởng chuyên môn khối 2, 3, Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Tân Lĩnh (huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái) luôn nỗ lực, phấn đấu vượt qua khó khăn để mang những điều tốt đẹp nhất cho giáo dục vùng cao.
Sinh năm 1981, dù sinh ra và lớn lên ở Hưng Yên, nhưng cô giáo Đỗ Thị Nhàn không lựa chọn lập nghiệp tại vùng đồng bằng mà nuôi dưỡng ước mơ dạy học ở miền núi Yên Bái.
Cô giáo Đỗ Thị Nhàn đã có 19 năm gắn bó với giáo dục vùng cao. Ảnh: NVCC.
Cô Nhàn kể: "Năm 1996, mình được bố đi làm ở Yên Bái dẫn theo và học trường cấp 3 tại đây. Khi mình lên đây, người dân còn khổ hơn bây giờ rất nhiều nhưng con người nơi đây sống với nhau thật thà, chân chất, san sẻ cùng nhau. Vì vậy mà từ ngày ấy mình đã nghĩ dù học bất cứ ngành gì cũng quyết tâm quay trở lại đây để giúp đỡ bà con, đặc biệt là các em nhỏ".
Hồi đó, cô Nhàn nguyện vọng thi vào hai ngành có sức ảnh hưởng lớn đến cuộc sống bà con vùng cao nhất là y và sư phạm. Sau đó cô quyết tâm trở thành giáo viên khi theo học tại trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc và thực hiện được ước mơ của mình là quay lại Yên Bái dạy học.
Cô Đỗ Thị Nhàn tâm sự, nhiều thầy cô giáo bám bản dạy học ở nơi khác đến nên dù xa nhà nhưng ở tập thể có những ngày đầu khó khăn đều được chia sẻ, giúp đỡ.
Những ngày đầu tiên trở thành giáo viên bám bản, cô Nhàn gặp nhiều trở ngại, lúng túng khi giao tiếp vì chưa hiểu được ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số. Đối diện với khó khăn, cô giáo trẻ lại càng quyết tâm dạy tiếng phổ thông, mang con chữ đến với các em nhỏ ở các bản làng.
"Giáo viên miền núi cách đây 19 năm khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Không điện, không nước, không đủ điều kiện về cơ sở vật chất. Mỗi giáo viên muốn nấu ăn phải tự đi ra suối lấy nước, kiếm củi về đun. Nhà tranh, vách nứa dựng tạm, có nơi che mưa, che nắng qua ngày để dạy học.
Thế nhưng mọi người vẫn luôn nỗ lực cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Mình nghĩ chỉ có tình yêu thương mới có thể vượt qua những khó khăn, vất vả. Bây giờ bà con dân bản đã hiểu được sự quan trọng của giáo dục và quyết tâm cho con em đi học. Đó chính là quả ngọt mà các giáo viên bám bản được gặt hái sau nhiều cố gắng", cô Nhàn tâm sự.
Trong những ngày chống dịch, các cô giáo mang bài vào bản để dạy học trò. Ảnh: NVCC.
Ánh mắt buồn rầu của những đứa trẻ mong ước đi học nhưng không đủ sách vở, quần áo. Những bữa cơm lúc no, lúc đói, nhiều ngày phải ăn ngô... là những điều ám ảnh, nhưng lại tiếp thêm sức mạnh để cô Nhàn tiếp tục hành trình dạy học gian nan ở mảnh đất nghèo - ấm tình người.
Là giáo viên, người sát cánh cùng các em trong từng bước đường đến với văn hóa, với con chữ, cô Đỗ Thị Nhàn còn chủ động kết nối, kêu gọi các nhóm thiện nguyện giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Từ câu chuyện cậu học trò được xin sách gọi cô bằng mẹ, đến cô nữ sinh đại học hôm nay nhớ mãi chiếc quần màu vàng do cô Nhàn xin được để phấn đấu. Tất cả để lại dấu ấn không chỉ là một cô giáo dạy chữ mà đó là cả những bài học làm người, bài học về sự sẻ chia từ một người làm nghề giáo.
Hành trình vượt khó mang chữ vào bản
Cô Nhàn chia sẻ: "Học sinh hầu hết ở xa trường, đường đến trường toàn đồi dốc đi lại khó khăn. Bản thân mình mỗi lần đi vận động học sinh phải đi hết quả đồi này đến quả đồi khác. Đi đến từng bản như thế mới thấm được các em đi học vất vả như thế nào. Có những em muốn đến trường phải lội qua suối. Mùa nước cạn thì không sao nhưng mùa nước lũ thì hầu hết các em phải nghỉ học.
Những năm gần đây, một số học sinh xa quá thì được tạo điều kiện ăn ở lại trường nên cũng đỡ vất vả. Những học sinh còn đi qua suối, qua sông thì nay được xã và nhà trường hỗ trợ tiền thuyền bè đi học. Vì thế số học sinh đến trường ngày càng nhiều hơn, học sinh bỏ học, nghỉ học cũng ít hơn".
Giáo viên vào bản dạy học xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc. (Ảnh NVCC)
Vừa qua, tình hình dịch bệnh căng thẳng khiến học sinh không thể đến trường nên phương án dạy học trực tuyến cũng được Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Tân Lĩnh triển khai. Dạy học trực tiếp vốn đã khó khăn thì phương án dạy học trực tuyến lại thêm nhiều trở ngại.
"Trong đợt dịch vừa qua, mình đã chỉ đạo tổ viên tổ mình phải quán triệt tất cả mọi người thực hiện tốt nhiệm vụ được giao phó.
Đối với học sinh vùng cao phải xác định nếu triển khai học trực tuyến thì tỉ lệ hiệu quả rất thấp vì điều kiện trang thiết bị cho một buổi học của các em phần lớn không đảm bảo. Người có thiết bị thì không có đường truyền, người có đường truyền thì thiết bị không có...
Tại địa phương, hầu hết các em ở với ông bà lớn tuổi, bố mẹ dù đã rất quan tâm nhưng phải đi làm kinh tế nên cũng không thể đồng hành cùng con trong các giờ học", cô Nhàn cho hay.
Để đảm bảo được kiến thức sau khi hết dịch có thể đi học lại bình thường, cô Đỗ Thị Nhàn cùng các đồng nghiệp đã đi đến tận các thôn, bản đưa bài, giao bài, thậm chí đối với một số học sinh chậm hiểu, cá biệt, giáo viên còn phải vào tận nơi hướng dẫn, kèm cặp học sinh.
"Ở trường mình nhiều học sinh ở xa, thời tiết ở đây thì lúc nắng, lúc mưa, học sinh nghỉ học 1,2 buổi sẽ hổng kiến thức mà chán học, không muốn đến trường.
Vì thế mình luôn quan niệm giáo viên là phải thấu hiểu để chia sẻ, kèm cặp, giúp đỡ học sinh, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các em có thể tới trường, hứng thú đi học, được học.
Học trực tuyến cũng như học trực tiếp, nếu hoàn cảnh khó khăn thì khắc phục hoàn cảnh để cố gắng đạt kết quả tốt nhất có thể. Chính vì thế, giáo viên vào bản không chỉ mang bài đến với học sinh mà là mang cả sự nhiệt huyết, tận tâm và cả tình yêu thương đến với các em học sinh", cô Nhàn cho biết.
Ngoài dạy học tại trường, những giáo viên miền núi như cô giáo Nhàn còn nhận nhiệm vụ xóa mù chữ tại chữ tại các bản làng. Đường đi ở đây vốn dĩ ngoằn nghoèo, dốc đá, nhưng những lớp học đó lại tranh thủ vào tối muộn vì chỉ có lúc đó bà con, đồng bào dân tộc mới nghỉ ngơi, mới có thời gian học chữ.
"Không phải ai cũng sẵn sàng cho việc học chữ, biết chữ. Phần lớn những người đến lớp xóa mù chữ đã lớn tuổi. Ngoài việc họ không biết chữ thì vẫn còn ít nhiều những suy nghĩ lạc hậu, cổ hủ. Do đó, giáo viên vào bản dạy chữ buổi tối không chỉ làm công tác giáo dục mà còn làm công tác tư tưởng, mở ra những quan niệm cuộc sống mới, thay đổi nhận thức về giáo dục ở cùng cao", cô Nhàn tâm sự.
Những vất vả, khó khăn sẽ vẫn còn nhiều nhưng tin chắc rằng cuộc sống bà con, học sinh vùng cao sẽ thay đổi diện mạo bởi có những giáo viên đầy tâm huyết cống hiến như cô giáo Đỗ Thị Nhàn.
"Chồng mình cũng làm công tác trong ngành giáo dục nên có một chỗ dựa vững chắc về tinh thần, để chia sẻ, thấu hiểu những vất vả của vợ.
Với bản thân mình, mình chỉ muốn làm như thế nào để tất cả các em học sinh đều được đến trường, được đầy đủ về điều kiện học tập. Khi nhận thức về giáo dục cao hơn thì đời sống nhân dân vùng núi mới phát triển hơn.
Đã có những học trò học tập, thành đạt và quay trở về Yên Bái để giúp đỡ lớp trò nhỏ của quê hương đến trường. Đó là hình ảnh đẹp và đó cũng là động lực cho các thầy, cô giáo miền núi như mình cống hiến cho giáo dục vùng cao", cô Nhàn bày tỏ.
Luân chuyển giáo viên: Thêm động lực gắn bó với nghề Những năm qua, nhiều thế hệ cán bộ, giáo viên từ miền xuôi lên vùng cao Yên Bái công tác đã nỗ lực vượt khó, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong phát triển giáo dục vùng cao. Sinh hoạt nhóm với sự hướng dẫn của cô giáo - HS Trường PTDT bán trú TH&THCS Khấu Ly, xã Bản Mù, huyện...