Giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng như thế nào với vấn đề thất nghiệp?
Ở Việt Nam, mặc dù tỷ lệ biết đọc biết viết rất cao, song tình trạng thiếu hụt nhân lực lành nghề là một vấn đề dai dẳng và giáo dục trong đó có giáo dục đại học không phù hợp.
Đó là nhận định của GS.TS Nguyễn Lộc, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành trong bài phân tích: “Giáo dục đại học và Việc làm”
GS Lộc cho rằng, các vấn đề thách thức của việc làm, cụ thể là thất nghiệp và thiếu hụt nhân lực là hiện tượng toàn cầu. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. So với quốc tế, mặc dù mức độ thất nghiệp và thiếu hụt nhân lực của Việt Nam chưa đến mức độ báo động, song với nền giáo dục đại học còn nhiều khiếm khuyết kể cả khía cạnh quy mô và chất lượng, cần có nhiều nỗ lực vượt bậc.
Các nỗ lực này cần được triển khai đồng bộ ở ba khía cạnh lớn, đó là: Nâng cao hiệu quả chi tiêu và tài chính cho giáo dục đại học, Hoàn thiện quản lý các trường đại học công lập thông qua thúc đẩy tự chủ và chịu trách nhiệm và Tăng cường phối hợp các tác nhân đối với giáo dục đại học.
Nhiều cử nhân, thạc sĩ phải cất bằng để xin làm việc công nhân
Giáo dục đại học không phù hợp?
Nói về tình trạng thừa – thiếu nhân lực và giáo dục đại học Việt Nam, GS.TS Nguyễn Lộc, trường ĐH Nguyễn Tất Thành cho biết, Việt Nam không là ngoại lệ trong bức tranh chung của mối quan hệ giáo dục đại học – việc làm trong khu vực và quốc tế.
Đến quý 4 năm 2017, cả nước có gần 54,1 triệu lao động có việc làm và khoảng 1,11 triệu lao động thất nghiệp.
Số lao động thất nghiệp thanh niên hiện đã chiếm tới 49,1% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Lao động thanh niên thiếu việc làm chiếm gần 20,0% tổng số lao động thiếu việc làm cả nước – 159,9 nghìn người (Tổng cục thống kê, 2017).
Và với hơn 200 ngàn người có trình độ đại học trở lên thất nghiệp, chiếm tối đa 4.4%. Theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế, ngưỡng cần quan tâm là 5%. Tổ chức này cũng cho rằng, tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp sẽ thúc đẩy quá trình cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
GS.TS Nguyễn Lộc phân tích, bức tranh về nhân lực của Việt Nam sẽ rất không đầy đủ và khó có định hướng tương lai nếu không đề cập tới vấn đề thiếu hụt nhân lực. Không có thống kê cấp hệ thống về vấn đề này ở Việt Nam, tuy nhiên có một số dữ liệu từ một số khảo sát doanh nghiệp xuyên quốc gia.
Các nghiên cứu dấu vết sinh viên tốt nghiệp (Graduate Tracer Study-GTS) 2011 cho thấy rằng một phần ba doanh nghiệp báo cáo là không thể tìm ra những nhân lực họ cần. Một khảo sát dành riêng cho các giám đốc điều hành tại Việt Nam cho thấy 40% trong số họ gặp khó khăn trong việc tuyển nhân sự trên các cấp độ, các ngành và nghề nghiệp khác nhau.
Video đang HOT
Các Khảo sát nguồn nhân lực GTS cũng tiết lộ tình trạng thiếu hụt cấp cao về chuyên môn kỹ thuật và ngành trong một số ngành công nghiệp: ví dụ, trong chế biến thực phẩm; chăm sóc sức khỏe; xây dựng; giao thông vận tải và hậu cần: hóa chất và ngành công nghiệp phân bón, và ngành dệt may.
Khoảng cách kỹ năng cũng rất phổ biến ở cấp quản lý. Việt Nam đang thiếu nhân lực trong bốn cấp độ sau – lao động, quản lý, kỹ sư và công nhân có tay nghề cao. Khảo sát Tổ chức Thương mại Bên ngoài của Nhật Bản (Japan External Trade Organisation – JETRO) phát hiện ra rằng sự thiếu hụt các kỹ sư, kỹ thuật viên và người quản lý trung bình ở Việt Nam tương đối cao hơn ở Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines.
Ở Việt Nam, mặc dù tỷ lệ biết đọc biết viết rất cao, song tình trạng thiếu hụt nhân lực lành nghề là một vấn đề dai dẳng và giáo dục trong đó có giáo dục đại học không phù hợp. Chất lượng giáo dục do doanh nghiệp không cao, trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn giáo dục Myanmar (WEF, 2016).
Phát triển kỹ năng không theo kịp với tăng trưởng kinh tế và nhu cầu về lao động lành nghề. Cải thiện hệ thống giáo dục để phát triển các kỹ năng thích hợp sẽ là giải pháp bắt buộc để giải quyết tình trạng thiếu hụt hiện tại và tương lai. Việt Nam đã và đang buộc mở cửa để lấp đầy nhiều thiếu hụt lao động từ các nền kinh tế khác.
Tài chính đóng vai trò quan trọng
GS Lộc cho rằng, cũng như nhiều quốc gia khác, nguồn lực tài chính của nhà nước dành cho giáo dục luôn khan hiếm. Việt Nam dành cho giáo dục một tỷ trọng cao (kể cả so với GDP hoặc ngân sách), song xét dưới góc độ chi tiêu thực tế trên đầu người học nói chung và sinh viên đại học nói riêng, nước ta ở mức độ rất thấp.
Do vậy, vấn đề hiệu quả chi tiêu và tài chính cho giáo dục đại học đóng vai trò tối quan trọng, đặc biệt đối với việc tăng cường đáo ứng của nó đối với thế giới việc làm. Cụ thể, giải pháp này sẽ giúp giảm thiểu nhiều phân cách trong mối quan hệ giáo dục-việc làm như thiếu ngân sách cho nghiên cứu, thiếu học bổng và các biện pháp đảm bảo công bằng giáo dục, giúp giải quyết việc kết nối giữa giáo dục đại học với giáo dục phổ thông thông qua học bổng và các khoản vay.
Theo GS Lộc, so với các nước như Trung Quốc và Thái Lan, mức độ tiếp cận giáo dục đại học của Việt Nam thấp hơn nhiều. Điều này dẫn tới việc đánh giá chung là số lượng nhân lực của trình độ đại học của Việt Nam không đủ đáp ứng sự phát triển kinh tế của đất nước. Các nhà sử dụng nhân lực ở Việt Nam đều cho rằng, chính sự không đủ về số lượng này dẫn tới việc thiếu hụt về nhân lực trình độ cao.
Về chất lượng dưới góc độ tài chính, các nghiên cứu cho rằng Việt Nam cũng sẽ phải huy động đáng kể nguồn lực bổ sung, chủ yếu là tăng chi thường xuyên (khoảng bốn đến năm lần đối với tiền lương, tiếp theo là đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý.
Chi phí cho đầu một sinh viên khoảng 1.500 đô la Mỹ. Học phí này, cùng với các chi phí khác như phụ phí, sinh hoạt và chi phí chỗ ở được tính toán dựa trên ước tính khoảng 70% thu nhập hộ gia đình cho nhóm nghèo nhất và 30% cho nhóm giàu nhất. Mức học phí này cần được tính lại và tăng đến khoảng 4.000 đô la Mỹ thập kỉ tiếp theo.
T húc đẩy tự chủ và chịu trách nhiệm
Theo GS Lộc, đối với Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học công lập đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì, các trường này có tới hơn 80 phần trăm sinh viên theo học.
Toàn bộ các khó khăn, những phân cách đều liên quan đến quản lý. Ví dụ, ngay cả khi các trường nhận được các khoản kinh phí đầy đủ để mời được đội ngũ giảng viên trình độ cao, song nếu mức tự chủ không đủ để chọn nhân viên và quyết định về chương trình đào tạo thì các trường sẽ khó cung cấp những gì mà các doanh nghiệp cần. Sự cần thiết của tính chịu trách nhiệm cũng tương tự.
Các nghiên cứu cho rằng xu thế chung trong quản lý trường đại học hiện nay là tập trung vào hoàn thiện cơ chế tự chủ và chịu trách nhiệm. Tự chủ cùng với giải trình trách nhiệm của trường đại học có thể mang lại những lợi ích to lớn cho phát triển nguồn nhân lực và đổi mới ở các nước thu nhập thấp như Việt Nam.
Có được điều này là bởi động lực được tạo ra mạnh hơn nhờ có cấu trúc quản trị rõ ràng và sử dụng nhiều hơn thông tin địa phương, kết hợp tốt hơn đào tạo và nghiên cứu giữa các trường đại học và thị trường lao động nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của địa phương và lựa chọn chất lượng.
Do vậy, tăng cường quyền tự chủ được coi là có thể hỗ trợ kết hợp tốt hơn giữa đầu ra từ các trường đại học và nhu cầu thị trường lao động. Mức độ tự chủ và chịu trách nhiệm của các trường đại học của Việt Nam chưa cao.
Về các tác nhân có ảnh hưởng mạnh tới việc nâng cao sự đáp ứng của giáo dục đại học đối với thế giới việc làm, theo GS Lộc, đó là các bộ ngành có liên quan như Bộ lao động, Bộ tài chính và Bộ khoa học và công nghệ. Thứ hai đó là các trường đại học tư thục. Tiếp theo ta có các tổ chức đào tạo quốc tế. Và cuối cùng là mối quan hệ trường-doanh nghiệp.
Việc phối hợp các tác nhân đối với giáo dục đại học được coi là một cách tiếp cận quan trọng trong việc giảm thiểu các rào cản giữa giáo dục đại học với việc làm.
Nhật Hồng (ghi)
Theo Dân trí
PGS.TS.Phạm Bích San: Thầy cô được tự chủ trên giảng đường
Tự chủ Đại học theo hướng giảm can thiệp vào giáo trình của chính Giáo sư, Tiến sĩ, nâng cao quyền lực của Hội đồng trường ĐH.
PGS.TS. Phạm Bích San -Viện Nghiên cứu tư vấn và phát triển, nguyên Phó tổng thư ký Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam khi tham gia diễn đàn khoa học "Tự chủ trong giáo dục Đại học - những vấn đề đặt ra" cho rằng cần phải kiên quyết với công cuộc tự chủ Đại học. Đây là vấn đề nếu làm tốt sẽ nâng cao chất lượng của các trường Đại học, nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên.
PGS.TS. Phạm Bích San - Viện Nghiên cứu tư vấn và phát triển
Có 4 yếu tố để một trường Đại học tự chủ gồm: tự chủ về học thuật, tự chủ nguồn nhân lực, tự chủ tài chính và trao quyền cho Hội đồng trường trong quản lý trường Đại học.
Ông San cho rằng, Đại học quan trọng nhất là tự chủ về học thuật. Tự chủ học thuật tức là các trường Đại học phải được quyền quyết định đào tạo theo hướng gì, phục vụ cho cái gì. Trường Đại học phải tự quyết định mình sẽ dạy những ngành nghề nào và nội dung đào tạo là gì để phù hợp với nhu cầu của thị trường. Điều này ở Việt Nam chưa có.
Do vậy, khi mở ra một khoa mới, một chương trình đào tạo mới thì cần phải có sự kiểm duyệt bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ chủ quản. Trường Đại học phải có chương trình giảng dạy thế nào cho sinh viên để sau khi ra trường có thể đạt được các yêu cầu nghề nghiệp thì đó là việc tự chủ của trường.
Thứ hai, tự chủ nguồn nhân lực. Trường Đại học phải được quyền tự lựa chọn nhân lực của trường theo nhu cầu của trường và năng lực tài chính của họ, không bị chi phối bởi các chỉ tiêu: tối thiểu bao nhiều Giáo sư, Phó Giáo sư... Các trường Đại học nên được tự chủ trong việc lựa chọn Giáo sư nào, chuyên gia quốc tế nào về giảng dạy tại trường và khi Giáo sư đó được mời về thì được giảng dạy theo chương trình của Giáo sư đó.
Nước Mỹ có một cơ chế rất hay là chọn giảng viên thông qua thư giới thiệu của những người có uy tín. Người ta thành lập hội đồng hẳn hoi, xét rất chặt. Nhưng khi đã vượt qua được sự sát hạch chặt chẽ ấy thì người thầy được trao toàn quyền đối với việc giảng dạy, không bao giờ có chuyện hiệu trưởng, hiệu phó hay thậm chí là giáo vụ trường can thiệp, điều chỉnh như ở ta.
Ở ta, thường cũng có hội đồng để "chấm điểm" đề tài khoa học nhưng hội đồng này lại toàn nhà quản lý thì làm sao đánh giá chính xác được. Nhà quản lý nên trở về với nhiệm vụ của mình là tập hợp đội ngũ các nhà khoa học và lấy nhà khoa học này để đánh giá nhà khoa học khác.
"Theo kinh nghiệm quốc tế, Hội đồng trường sẽ đánh giá rất kỹ lưỡng, tỷ mỉ về việc sẽ lựa chọn Giáo sư nào để về giảng dạy tại trường. Chúng ta nên áp dụng tương tự. Đội ngũ nhân sự của trường Đại học không nên được lựa chọn bởi cơ quan chức năng nào bên ngoài trường" - TS. Phạm Bích San nhận định.
Đối với tự chủ về Tài chính, theo TS. Phạm Bích San, trường Đại học cần phải tự lực cánh sinh các vấn đề tài chính của mình. Ngoài khoản thu từ sinh viên, một trường Đại học cũng có các khoản đầu tư, hợp tác quốc tế... Do đó, không thể viện cớ vì học sinh nghèo không có điều kiện để học Đại học nên mức thu học phí từ sinh viên phải giảm thấp xuống, ảnh hưởng đến nguồn thu của trường.
TS. Phạm Bích San cho rằng, nếu lo ngại về khoản học phí của sinh viên thì các trường có thể sử dụng cơ chế trao học bổng, Nhà nước cần phải có thêm các chính sách về hỗ trợ tài chính, bảo trợ xã hội...
Vấn đề thứ tư là hệ thống giám sát kiểm tra trong nội bộ Nhà trường. Hội đồng trường cần phải được tổ chức sát sao hơn nữa để đánh giá tỉ mỉ hoạt động và hiệu quả của trường. Hội đồng này phải không bị chịu sự chi phối của các quyền lực bên trong Nhà trường (như Hiệu trưởng) hay bên ngoài Nhà trường (Bộ chủ quản).
Không nên đặt cho Nhà trường quá nhiều nhiệm vụ quá: vừa phát triển sự nghiệp vừa phát triển nhiệm vụ khoa học & công nghệ.
"Theo tư duy quản lý hiện đại, cơ quan quản lý Nhà nước sẽ định hướng về đào tạo nhân lực trình độ cao chứ không đặt ra kế hoạch. Ở Việt Nam hiện nay vẫn quản lý theo cách đặt chỉ tiêu và can thiệp quá mức một cách không cần thiết. Thay vì đặt kế hoạch và giao chỉ tiêu, hãy để nền kinh tế tự điều tiết và các trường Đại học được tự chủ. Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ có thêm nhiều tiến sĩ rởm" - ông Phạm Bích San trả lời báo chí.
Đặc biệt là dù số Giáo sư, Tiến sĩ của Việt Nam nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH Việt Nam nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới.
Theo ông Phạm Bích San, cần phải kiên quyết chuyển sang tự chủ Đại học, tạo điều kiện hết sức để tự chủ Đại học thì các Giáo sư, những nhà quản trị giáo dục sẽ tự biết cách để tự chủ học thuật, tự chủ tài chính, tự chủ nhân sự thế nào, thu học phí bao nhiêu nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là nâng cao uy tín của nhà trường và đào tạo đội ngũ lực lượng lao động chất lượng, đáp ứng nhu cầu xã hội.
"Hãy để các thầy cô làm chủ giảng đường của mình, làm chủ công việc của mình thì khi đó, Nhà trường Đại học sẽ tự chủ được, tốt lên. Khi đó, xã hội cũng sẽ tốt lên" - vị chuyên gia nhấn mạnh.
Cúc Phương
Theo baodatviet
"Để học sinh ăn phải thịt ôi, gạo mốc trong trường học là tội ác!" Để thực phẩm bẩn tràn vào bữa ăn bán trú, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của học sinh, theo phụ huynh và các chuyên gia, điều này là tội ác, không thể chấp nhận. Hình ảnh do phụ huynh ở Bà Rịa - Vũng Tàu chụp lại, để 'tố' nhà trường cho trẻ ăn cơm nấu bằng gạo...