Giải quyết ba vấn đề của người Việt khi học tiếng Anh
Chúng ta cần giáo trình tiếng Anh giải quyết tận gốc ba vấn đề, tích hợp những gì cần cho quá trình tự học mà không lệ thuộc vào người dạy hay môi trường.
Anh Phan Thế Dũng, 38 tuổi, tốt nghiệp Học viện Ngoại giao năm 2004, từng giảng dạy ngôn ngữ Anh tại một số quốc gia Đông và Tây Phi trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ phát triển giữa Quỹ Dominial Capital và địa phương. Hiện anh Dũng là chủ nhiệm chương trình khơi nguồn cảm hứng học tiếng Anh cho cộng đồng với hàng nghìn lượt lớp học miễn phí (online lẫn offline).
Trong bài viết trước anh Dũng đã chỉ ra ba vấn đề của người Việt trong học tiếng Anh là lối tư duy cảm tính, khác biệt về cơ địa với người bản xứ và thói quen sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Bài viết này tác giả đề cập đến giải pháp, trước hết cần một giáo trình có khả năng giải quyết tận gốc ba vấn đề.
Dù nghe nói hay đọc viết chúng ta cũng cần đến kiến thức về ngữ pháp để tạo ra hay nhận biết một câu tiếng Anh. Ngữ pháp bao gồm cú pháp và từ pháp. Trong khi từ pháp là kiến thức rời rạc tiểu tiết về các dạng thức biến đổi của từ cho phù hợp để sử dụng cũng như quan hệ tương thích với các từ khác trong cụm hay câu, ví dụ khi nào “be” trở thành “is” hay “were”, “many, much” dùng cho danh từ nào, thì cú pháp cung cấp tư duy tổng quát có tính hệ thống và logic về câu.
Nắm vững kiến thức cú pháp thì nhìn một câu bất kỳ có thể nhận diện được ngay nó thuộc dạng câu nào (để biết câu có bao nhiêu thông điệp, thông điệp chính nằm ở đâu), biết được mỗi câu đơn (mệnh đề) trong đó thuộc loại hình gì, từng thành phần ra sao, trật tự cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng. Kiến thức cú pháp cũng bao gồm cụm trong tiếng Anh (thành phần, trật tự, mối quan hệ qua lại về mặt ngữ nghĩa giữa các thành phần với nhau).
Từ đây người học sẽ vỡ ra nhiều điều về đặc trưng ngôn ngữ Anh khác hẳn ngôn ngữ Việt. Ví dụ họ dùng cụm để xây dựng câu chứ không dùng từ. Ở chiều ngược lại, kiến thức về cụm cũng chính là thứ để giúp dễ dàng nhìn ra các thành phần trong một câu, bởi mỗi thành phần như vậy luôn tương ứng với một cụm, rất hiếm khi là từ, nếu có thì tự nó cũng là cụm ở dạng thức đơn giản nhất.
Một câu tiếng Anh với nhiều từ mới và dài dòng cũng giống như tác phẩm hội họa phức tạp. Hãy thử hình dung bạn đứng trước bức tranh của Picasso mà không chút mảy may kiến thức gì về trường phái lập thể, không có hình dung nào về bố cục, hình khối. Thiếu vắng kiến thức về cú pháp, chỉ chăm chăm vào từ pháp chẳng khác gì xây nhà mà không hình dung về loại nhà định xây cũng như bản vẽ thiết kế của nó, chỉ có gạch, ngói, cát vữa trong tay.
Tất nhiên các bạn sẽ đặt vấn đề còn từ vựng nữa chứ. Xin thưa một khi đã nắm vững kiến thức cú pháp rồi bạn sẽ luôn hình dung ra ngữ nghĩa của một từ mới trong văn cảnh của nó trước khi tìm đến cuốn từ điển nhờ các mối quan hệ mang tính hệ thống và logic trong câu. Và học từ theo văn cảnh cũng chính là chìa khóa để mở ra cánh cửa suy nghĩ bằng tiếng Anh, tạo ra phản xạ dùng từ chính xác mau lẹ khi cần, điều mà bất kỳ người học nào cũng mơ ước.
Tiếp theo, chúng ta cần thêm kiến thức để giao tiếp qua con đường âm thanh, nói và nghe. Nói đúng, nói chuẩn thì nghe sẽ tự khắc dễ dàng. Nói có vẻ hay thì chưa rõ là có chuẩn hay không, nhưng nói đúng thì đương nhiên là hay, bởi nó gắn liền với những công thức, quy định mang tính tiêu chuẩn. Vậy chúng ta hãy cùng nhau hướng đến việc nói sao cho đúng.
Ở cấp độ đầu tiên, chúng ta cần nói cho đúng một từ đơn lẻ, gồm có phát âm và tông giọng, hai thứ được coi là nền tảng, là gốc của nói và nghe tiếng Anh.
Video đang HOT
Về tông giọng, tên gọi khác của độ cao thấp (pitch), kỳ lạ là số đông người Việt không được dạy, không được nghe nói tới trong khi nó là nền tảng căn bản nhất cho ngữ điệu trong nói tiếng Anh. Phần lớn cứ nghĩ tông giọng – ngữ điệu là để nói cho hay, cho giống Tây. Nhưng thực ra nó là tín hiệu truyền thông tin nội dung, tức là đúng hay sai, cũng là hiệu quả giao tiếp khi nghe nói.
Thanh điệu bằng trắc quan trọng thế nào trong nói tiếng Việt thì tông giọng đóng vai trò tương tự trong nói tiếng Anh. Thay cho 6 thanh điệu của tiếng Việt, người bản xứ có 3 tông giọng, gồm cao (1), bình thường (2) và thấp (3). Hãy hình dung một bài hát chỉ có lời mà không có nốt nhạc thế nào thì nói tiếng Anh không tông giọng cũng như vậy.
Từng tông 1, 2, 3 dùng ở đâu trong câu nói, truyền tải điều gì, cách thực hiện ra làm sao, đều mang tính công thức mà bất kỳ người học nào cũng có thể học được dễ dàng. Và đã là công thức thì đương nhiên người học có thể học để tự áp dụng vào mọi câu mình nói ra, không phải hỏi ai hay nghe theo ai.
Đặt tông giọng sai chỗ, hay thực hiện sai về độ cao quy định, người bản địa nghe chúng ta nói sẽ bị phân tâm rối trí. Ngược lại nghe người bản địa nói các bạn sẽ mệt mỏi vì cứ theo thói quen căng tai nghe cho bằng được hết từ mới thôi.
Anh Phan Thế Dũng. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Về phát âm, điều tệ nhất của việc dạy và học phát âm là người dạy nói trước người học nhại theo sau, hoặc dù có kèm giải thích thì cũng là những sự giải thích mông lung khiến người học không tài nào hình dung nổi, bởi âm thanh vốn dĩ là thứ vô hình, mơ hồ và đầy cảm tính. Biện pháp khắc phục ở đây chính là cần dạy và học phát âm theo khẩu hình, động tác, là những thứ hữu hình, được công thức hóa, lượng hóa và có thể kiểm chứng đúng sai.
Về nguyên âm, /u:/, /i:/ là nhóm âm cử động môi, môi chúm môi bẹt. /a:(r)/, /:(r)/; /:(r)/ là nhóm âm cử động hàm; /u/, /i/, //, //, //, /e/ thuộc nhóm âm đơ mặt cứng bụng mà đẩy hơi lên, bất kỳ cử động mấp máy nào của môi hay hàm là sai. Còn nguyên âm đôi thì cứ quy tắc âm đầu choán trọn mà ghép nối với nhau.
Về phụ âm, chỉ cần rạch ròi vị trí, đặc điểm, tính chất từng âm là đủ. 24 phụ âm tiếng Anh; 7 vị trí (môi, môi – răng, răng – lưỡi, lưỡi – lợi, lưỡi – ngạc cứng, lưỡi -ngạc mềm, cổ họng); 6 nhóm đặc điểm (tắc, xát, tắc – xát, mũi, nước, trượt); 2 tính chất (hữu thanh – vô thanh).
Cuối cùng là việc nói đúng một câu hoàn chỉnh liền mạch(connected speech) để rồi có thể nghe người bản địa nói một cách dễ dàng. Ngoài tông giọng, chúng ta cần được dạy và học một cách bài bản về nói câu bao gồm: Xử lý phụ âm cuối (ending consonant), ý (thought group) và các điểm ngừng (pause, hesitation), trọng từ (rocus), độ mạnh yếu của giọng (stress), dạng nói lướt (reduction), nhịp điệu (rhythm), đường cong (curve), tương phản (contrast), ngữ điệu (intonation) hay các dạng thức lên, xuống giọng (rising and falling patterns).
Học để thay vì mò mẫm không phương hướng mỗi người cứ thế lắp công thức vào câu mình định nói. Học để ngay người dạy cũng buộc phải đối diện với áp lực chuẩn hóa bản thân, bởi một khi tất cả đã được công thức hóa, minh định rõ ràng không ai còn có thể biến báo theo cảm tính.
Dĩ nhiên đây là phương pháp chuẩn hóa đề ra cho độ tuổi đã có kiến thức nhất định về ngôn ngữ mẹ đẻ để có thể học một ngôn ngữ khác bài bản, có thể bắt đầu từ cấp THCS (tương tự việc phân độ tuổi học các mức độ tiếng Việt tương ứng). Trẻ em tiểu học và thấp hơn cần được học bằng phương pháp vô thức, tương tự trẻ em Việt trước sáu tuổi học tiếng Việt trong gia đình. Trẻ em có thể không học được, nhưng nếu thầy cô giáo, bố mẹ, anh chị trong gia đình được chuẩn hóa, tự khắc trẻ cũng sẽ được chuẩn hóa.
Ba vấn đề người Việt gặp phải khi học tiếng Anh
Bao năm qua người Việt vẫn sử dụng giáo trình du nhập do người bản địa biên soạn mà không có giáo trình riêng dành cho mình.
Anh Phan Thế Dũng, 38 tuổi, tốt nghiệp Học viện Ngoại giao năm 2004, từng giảng dạy ngôn ngữ Anh tại một số quốc gia Đông và Tây Phi trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ phát triển giữa Quỹ Dominial Capital và địa phương (Business Education Program).
Hiện anh Dũng là chủ nhiệm chương trình khơi nguồn cảm hứng học tiếng Anh cho cộng đồng với hàng nghìn lượt lớp học miễn phí (online lẫn offline). Anh Dũng chia sẻ góc nhìn vì sao người Việt gặp khó khăn khi học tiếng Anh.
Người Việt có nhu cầu học tiếng Anh không? Có, rất cần. Tiếng Anh có khó học không? Chắc chắn không, bởi ngoài yếu tố lịch sử để lại thì nếu quá khó học nó đã không trở nên phổ biến một cách tự nhiên như bây giờ. Phải chăng người Việt khó tiếp thu? Cũng không phải, chưa kể người dân có tính cần cù hiếu học.
Ba cấu thành cơ bản nhất nhu cầu, bản thân môn học, năng lực người học đều không vấn đề, vậy thứ còn thiếu ở đây chỉ có thể là phương pháp. Phương pháp luận dạy và học tiếng Anh chưa phù hợp được cụ thể hóa rõ nhất ở việc chúng ta chưa có một giáo trình dạy học phù hợp.
Cả hệ thống dạy học tiếng Anh chính thống trong nhà trường lẫn thị trường dạy và học tư nhân bao năm qua vẫn sử dụng những giáo trình du nhập do người bản địa biên soạn cho việc dạy tiếng Anh ra toàn thế giới. Và họ không có ý thức về những khó khăn người Việt mắc phải khi học để đề ra giải pháp tháo gỡ. Có ba vấn đề người Việt mắc phải khi học tiếng Anh.
Thứ nhất là lối tư duy cảm tính, tư duy thế nào thì sẽ hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ như vậy. Chúng ta ít có thói quen tư duy lý tính, khoa học, chính xác, hệ thống và logic, những thứ vốn là "đặc sản" của văn minh phương Tây, nơi sản sinh ra thứ ngôn ngữ này.
Một thí dụ là khi đánh giá tiếng Anh ai đó, ta thường là "nói hay", ít nhận xét "nói đúng". Đơn giản bởi ta không có ý niệm thế nào là đúng, thay vào đó là "cảm thấy", "nghe có vẻ như là", "giống Tây"... Đây chính là vấn đề bao trùm của nhiều người Việt, là cản trở lớn nhất.
Thứ hai là khác biệt về cơ địa, nhất là các bộ phận ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát âm như cổ họng, hàm, cơ miệng... Các bộ phận phát âm của người Việt mỏng manh, không chắc khỏe như người châu Âu nên cùng một hướng dẫn đưa ra âm thanh, ta làm không thể nào giống họ.
Âm thanh không giống tức nói khác đi, và nói khác thì khi nghe lại vẫn một từ đó nhưng não bộ phải mất hai lần để xử lý nhận diện. Đầu tiên là liên hệ từ âm thanh người bản xứ nói sang âm thanh mình nói, rồi từ âm thanh mình nói đến nghĩa tương ứng của từ. Đây là vấn đề thứ hai.
Anh Phan Thế Dũng. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Thứ ba là thói quen sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Tiếng Việt nặng về từ pháp (tức sử dụng từ nào cho đúng cho hay), chắp nối các từ phù hợp thành câu có nghĩa. Nếu hình dung về tiếng Anh cũng vậy, có từ là có tất cả, thì sẽ dẫn đến cả loạt hệ lụy: sa vào học từ rời rạc theo lối nhớ vẹt dẫn đến học mà không thể nào đưa ra dùng đúng chỗ; cộng dồn nghĩa các từ lại để hiểu câu; viết ra những câu ngô nghê tối nghĩa dù có đầy đủ từ vựng; bị ám ảnh thái quá với việc học từ vựng.
Tiếng Việt dùng các thanh điệu làm nền tảng, nói rõ từng tiếng là đủ hay. Quen cách này sang tiếng Anh sẽ tạo ra lối nói đều đều bằng một tông giọng và cố gắng nói rõ ràng đầy đủ từng tiếng.
Việc dạy và học tiếng Anh hiện nay tại Việt Nam, từ trong trường học chính thống cho đến ngoài xã hội, đều chưa có chương trình, giáo trình nào thực sự đề ra và giải quyết triệt để ba vấn đề trên. Chiều theo thói quen tư duy cảm tính, thậm chí có phần thích nhẹ nhàng, giản đơn từ mặt bằng chung người học, đấy chính là khởi nguồn của lối học vẹt, học vui phổ biến hiện nay.
Phần lớn người học tiếng Anh luôn có cảm giác bị bịt mắt bởi lối học vẹt này, học mà không hiểu thấu đáo tận cùng vấn đề của ngôn ngữ. Học vẹt thì nhàn hơn học nghiền ngẫm nhưng hậu quả là triệt tiêu niềm hứng thú với môn học và làm cùn khả năng tư duy. Trong đó tai hại hơn cả là hình thành tâm lý lệ thuộc hoàn toàn vào người dạy, từ cách nói một từ mới cho đến cách viết một câu văn.
Để giải quyết ba vấn đề trên cần nhiều giải pháp, nhưng đầu tiên là nhận thức lại về phương pháp luận dạy và học, biên soạn lại giáo trình. Người Việt cần giáo trình học tiếng Anh riêng, dựa trên những chuẩn mực của ngôn ngữ Anh nhưng cần được diễn giải lại bằng một người am hiểu ngôn ngữ Việt, hiểu được các khó khăn đặc thù khi chuyển đổi ngôn ngữ của người Việt.
Học từ mới tiếng Anh qua ngữ cảnh Khi học từ "budget", bạn có thể liên tưởng đến cụm "travelling on a tight budget" và nhớ về một ai đó đã đi du lịch xa mà chỉ tốn ít tiền. Làm chủ được nhiều từ vựng tiếng Anh là mong muốn của nhiều người khi bắt đầu học ngoại ngữ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách học, số lượng và cách...