Điện thoại thông minh như ‘ma lực’ gây nghiện, sao lại đưa vào lớp học?
Bày tỏ quan điểm sau hàng loạt ý kiến trái chiều xung quanh thông tư cho học sinh sử dụng điện thoại trong lớp học, TS. Nguyễn Khánh Trung cho rằng, điện thoại thông minh như một “ma lực” gây nghiện, sao lại đưa vào lớp học?
Có nên cho học sinh sử dụng điện thoại thông minh trong lớp học? (Nguồn: Dân trí)
Báo Thế giới & Việt Nam đăng tải bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của chuyên gia giáo dục, TS. Nguyễn Khánh Trung về vấn đề này. Bài viết không thể hiện quan điểm của Tòa soạn.
“Ma lực” đến từ chiếc điện thoại thông minh
Tôi quan tâm đến giáo dục, cũng quan tâm chuyện cho phép học sinh sử dụng điện thoại di động trong lớp học thể hiện trong Thông tư 32 của Bộ GD&ĐT vừa qua. Đồng ý rằng cần phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số vào việc dạy và học trong nhà trường nhưng tôi không đồng tình với việc cho học sinh sử dụng điện thoại trong lớp.
Không biết Bộ GD&ĐT đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu kỹ trước khi ban hành một văn bản có ảnh hưởng đến việc dạy và học của hàng triệu giáo viên, học sinh như vậy hay chưa. Nếu đã làm thì Bộ nên đưa ra các kết quả để biện giải cho quyết định của mình và thuyết phục mọi người; nếu chưa thì quả là một quyết định vội vàng! Tôi nghĩ những giải thích của Bộ hiện nay chưa thuyết phục.
Vì vậy, phụ huynh hoang mang là có cơ sở. Với trải nghiệm nuôi dạy con, có lẽ nhiều phụ huynh nhận thấy ma lực của màn hình, của điện thoại thông minh và những tác động tiêu cực của nó lên hành vi, thái độ, cách nói năng, ứng xử của con hằng ngày.
Tuy Bộ GD&ĐT đã giải thích chỉ được sử dụng cho việc học, nhưng lấy gì bảo đảm trẻ sẽ tuân thủ? Liệu giáo viên có thời gian, khả năng và sức lực để quản lý việc trẻ sử dụng để học hay để chơi trong khi công việc của họ đã rất nhiều, lớp học thường đã quá đông? Giáo viên có thể để ý đến bọn trẻ trong lớp, nhưng ngoài lớp thì sao?
Điện thoại thông minh như một ma lực gây nghiện, nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến “chứng nghiện điện thoại”, “nghiện màn hình”. Nay Bộ GD&ĐT quyết định như vậy chẳng khác gì cho lưu hành “chất gây nghiện” trong nhà trường!
Khi đã thích, thậm chí nghiện, trẻ sẽ rất thông minh để qua mặt người lớn. Chẳng hạn, chúng sẽ lấy lý do tìm thông tin cho việc học để tìm và nghe, xem những gì chúng muốn, rồi cũng rất thông minh để tắt, xóa những thứ đó trong một nốt nhạc mà người lớn sẽ không thể phát hiện ra. Người ta nói “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” là như thế.
Video đang HOT
Xét về nhiều mặt, sự có mặt của chiếc điện thoại trong lớp học theo tôi sẽ gây rất nhiều hệ lụy, trước hết là về việc học. Đã có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra các tác động xấu đến từ điện thoại với học sinh.
Chẳng hạn, báo cáo có tên Jules Ferry 3.0 của Hội đồng Quốc gia về kỹ thuật số của Pháp cho hay: “Tất cả giáo viên nhận thấy một nghịch lý tệ hại: học sinh trong các lớp của họ cảm thấy ít chủ động, tập trung chú ý hơn so với khi một mình chúng trước màn hình”.
Một nghiên cứu khác của Giáo sư tâm lý học Alain Lieury cũng đã chỉ ra: những thanh thiếu niên “dính” vào màn hình quá nhiều là những đứa trẻ làm việc, học tập một cách sơ sài, ngủ, nghỉ không đủ, sức tập trung giảm sút, kéo theo là thành tích học tập đi xuống.
Dựa trên những nghiên cứu này, Pháp cấm học sinh cấp 1 và cấp 2 sử dụng điện thoại trong trường học từ năm học 2018. Tương tự, nhiều trường ở Anh cũng chọn giải pháp này. Ở đây không chỉ là cấm sử dụng trong lớp, mà cấm cả trong trường, kể cả giờ ra chơi.
Người Pháp, người Anh cấm như vậy vì họ thấy rõ ảnh hưởng xấu của việc sử dụng điện thoại trong trường lên việc học, lên con em của họ, hẳn con em của chúng ta cũng không ngoại lệ.
Sự tập trung, chú ý trên lớp học là những yếu tố quan trọng trong việc học hành. Không có sự tập trung, sẽ không thể có đam mê, không có tinh thần hiếu tri thực sự. Việc học với các em sẽ trở nên thứ yếu, qua quýt để đối phó. Con em chúng ta sẽ khó có thể học sâu và tiến xa trên đường học tập và phát triển bản thân.
Dạy – học hiện đại phải thể hiện từ triết lý giáo dục
Xét về mặt tâm lý, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra, việc sử dụng điện thoại quá thường xuyên có thể gây ra trầm cảm, suy nghĩ tiêu cực, mắt kém, cơ thể yếu đuối vì thiếu vận động.
Hãy hình dung những học sinh đang tuổi chạy nhảy, lại ngồi im một góc để lướt điện thoại trong giờ ra chơi. Rõ ràng, những đứa trẻ kêu không nghe, gọi không trả lời, thích ở một mình, không muốn tiếp xúc và tương tác với người xung quanh, những đứa trẻ dành toàn thời gian, năng lượng và sự quan tâm cho thế giới mạng với những cơn nghiện facebook, nghiện game… không phải là những đứa trẻ lý tưởng.
Tất nhiên, việc cấm trẻ tiếp xúc với màn hình là rất khó và cũng không nên. Bởi công nghệ thông tin đem lại nhiều lợi ích, nó phục vụ đắc lực cho cuộc sống, công việc nói chung, việc học hành nghiên cứu nói riêng nếu biết cách sử dụng và khai thác nó.
TS. Nguyễn Khánh Trung. (Ảnh: NVCC)
Nhưng việc cấm học sinh sử dụng điện thoại trong lớp ở lứa tuổi trung học cơ sở lại là chuyện nên làm, để góp phần giảm thiểu những tiêu cực, từ đó, giúp những đứa trẻ giữ được sự cân bằng, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, tập trung học tập.
Ngược lại, cho phép điện thoại – thứ “gây nghiện” lưu hành chính thức trong trường học, sẽ tác động tiêu cực lên hàng triệu mầm non của đất nước, đó mới là điều có hại cho “tiền đồ đất nước”.
Vì vậy, không nhất thiết phải cho học sinh mang điện thoại vào lớp thì mới có thể áp dụng các phương pháp cũng như hình thức dạy học hiện đại. Dạy – học hiện đại phải được thể hiện từ triết lý giáo dục, từ mục tiêu giáo dục quốc gia đến cơ cấu nội dung chương trình, cách thức tiếp cận, cách thức thực hành giảng dạy, chứ không thể hiện ở việc cho phép sử dụng điện thoại trong trường học hay không.
Thay vào đó, nhà trường nên hiện đại hóa, chẳng hạn như tạo lập các thư viện, số hóa các tài liệu, kết nối với các thư viện trong nước và trên thế giới, tạo ra nhiều phòng máy tính hiện đại với các ứng dụng hữu ích, kết nối với các cơ sở dữ liệu phong phú.
Nhà trường tổ chức một cách linh động, dành nhiều thời gian để các em làm việc cộng tác với nhau, tạo điều kiện và khuyến khích tinh thần tự học, tự nghiên cứu.
Nhà trường xây dựng web, tạo ra các kênh liên lạc thuận lợi giữa nhà trường – học sinh – phụ huynh một cách hiệu quả để cùng nhau giúp từng học sinh phát triển tốt nhất theo cách của từng em. Đó là hiện đại, là ứng dụng công nghệ vào việc giảng dạy.
Tôi vẫn thích hình ảnh từng nhóm học sinh tra cứu tài liệu, làm các đề tài, tranh biện với nhau trong các phòng máy tính, trong thư viện, hay ở hành lang, ở các góc trường, hơn là hình ảnh mỗi học sinh ngồi im một góc trước một điện thoại di động, cho dù là đang tìm thông tin hay đang “chat”.
Có thể nói, tuổi cấp 1 và cấp 2 là lứa tuổi chưa đủ trưởng thành, cần được bảo vệ. Người lớn cứ phải kèm cặp, giám sát, chủ động tạo ra môi trường lành mạnh xung quanh để trẻ có thể phát triển.
Nhà nghiên cứu Olivier Houdé đã đề nghị các mốc tuổi trong việc tiếp xúc với màn hình: không màn hình với trẻ dưới 3 tuổi, không dùng máy chơi game console với trẻ dưới 6 tuổi; không internet với trẻ dưới 12 tuổi mà không có người lớn kèm. Trên 12 tuổi, các trẻ cần được thường xuyên hướng dẫn, giải thích, kèm cặp trong việc sử dụng mạng.
Cuộc sống của học sinh ngày nay vốn đã bị bủa vây với quá nhiều công nghệ, màn hình lớn nhỏ ở nhà, biến nhiều học sinh thành những “nô lệ màn hình”. Do vậy, nhà trường nên là nơi để các em lấy lại một chút cân bằng, níu kéo các em ở lại với sự đam mê học tập nghiên cứu, đồng thời, tập cho các em thói quen và kỹ năng tốt lành như đọc, tư duy độc lập, tranh biện, trình bày… Để về sau, các em có thể trở thành những con người tự do.
Học sinh sử dụng điện thoại trong lớp học: Chỉ người trong cuộc mới thấu!
Hẳn chúng ta ai cũng từng ít nhất một lần nghe đến câu "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Nay học trò lại có thêm điện thoại thông minh trong lớp thì tha hồ mà thể hiện những hành vi phá bĩnh?
Việc cho phép học sinh sử dụng điện thoại trong lớp học theo thông tư mới ban hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đang vấp phải sự phản biện mạnh mẽ từ dư luận xã hội. Có thể kể ra đây một số trăn trở lớn của những người trực tiếp trong cuộc, đó là giáo viên và phụ huynh.
Thứ nhất, tình huống cho phép học sinh sử dụng điện thoại cá nhân trong lớp hoàn toàn khác với giờ tin học. Vào giờ tin học, hệ thống máy tính đã được cài đặt đồng bộ dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của giáo viên tin học. Trong khi đó, điện thoại của từng học sinh thì lại có những tính năng công nghệ khác nhau. Nhiều học sinh sẽ qua mặt giáo viên, cố ý sử dụng điện thoại thông minh với các mục đích khác ngoài việc phục vụ học tập. Một lớp học ba bốn chục học sinh, một mình giáo viên chắc chắn không thể nào theo dõi hành vi sử dụng điện thoại của từng em. Đối với giáo viên, độ khó trong công tác quản lý, kiểm soát lớp học có thể tăng thêm.
Liệu thầy cô có đủ sức theo dõi tất cả học sinh trong lớp để kịp thời ngăn chặn các em chơi game, xem phim, lướt mạng? (Nguồn: VietnamNet)
Đành rằng theo quy định mới ban hành, học sinh chỉ có thể sử dụng điện thoại khi có sự cho phép của giáo viên, nhưng trên thực tế, do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, do cách hiểu của từng Sở GD&ĐT ở từng địa phương, việc triển khai thực hiện tại các trường học, hẳn sẽ có những độ vênh nhất định.
Nếu nhà trường tỏ ra có tinh thần khai phóng, trao hoàn toàn quyền quyết định cho giáo viên, đừng nghĩ rằng đây là một tín hiệu tích cực; vì giả như tình hình bình thường thì không sao, song một khi nảy sinh tình huống phức tạp, bản thân giáo viên sẽ là người đầu tiên hoàn toàn chịu trách nhiệm, áp lực từ phía nhà trường cũng như phụ huynh rất lớn. Gánh nặng lại chồng thêm gánh nặng!
Đây không phải là tâm lý "quản không được thì cấm" mà rõ ràng, có quá ít hành lang pháp lý với những quy định cụ thể để bảo vệ giáo viên trước những tình huống thực tiễn trong không gian sư phạm.
Hẳn chúng ta ai cũng từng ít nhất một lần nghe đến câu "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Nay học trò lại có thêm điện thoại thông minh trong lớp thì tha hồ mà thể hiện những hành vi phá bĩnh. Học sinh có thể ghi âm, quay hình với những nội dung không lành mạnh (chụp ảnh dìm hàng, quay cảnh hớ hênh...) hoặc cắt ghép ảnh, video thành những nội dung mang tính chất hư cấu nhằm câu view. Có thể các em chỉ nghĩ làm cho vui, giải trí, nhưng những hậu quả thì thật khôn lường!
Thứ hai, cứ ngỡ phụ huynh sẽ ủng hộ thông tư mới, nhưng kỳ thực, dễ dàng nhận thấy phần đông phụ huynh còn có nhiều ý kiến băn khoăn, lo âu. Công nghệ hiện đại mang lại nhiều hiệu quả tích cực, nhưng đồng thời cũng kéo theo đó là mặt tiêu cực với nhiều hệ lụy. Phụ huynh lo lắng mặt trái của công nghệ sẽ không được kiểm soát tốt nếu con em mình sử dụng điện thoại trong lớp học. Câu hỏi đặt ra là liệu thầy cô có đủ sức theo dõi tất cả học sinh trong lớp để kịp thời ngăn chặn các em có hành động chơi game, xem phim, lướt mạng vô bổ hay lên xem bài giải, đáp án?
Việc ghi chép truyền thống giúp con trẻ nhớ bài bằng phương pháp một lần ghi là một lần nhớ. Nếu lạm dụng điện thoại, phụ huynh lo lắng con trẻ sẽ có khuynh hướng ỷ lại vào công nghệ, sinh ra thói quen chây lười. Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh cũng lo ngại vấn đề tâm lý đua đòi của con trẻ lại phát sinh thêm một tình huống mới. Bạn bè dùng điện thoại cao cấp đời mới, khiến trẻ cảm giác thua thiệt; hoặc những bạn dùng điện thoại đời cũ bị các bạn trong lớp tỏ ý chê bai, thậm chí có hành động trẻ con là kêu gọi tẩy chay.
Rõ ràng, việc cho phép học sinh sử dụng điện thoại trong lớp sẽ phát sinh hàng loạt các vấn đề, các tình huống có liên quan mà đôi khi ngay cả nhà trường, giáo viên và phụ huynh cũng sẽ lúng túng khi xử lý. Bởi vậy, đòi hỏi cần có những quy định, chế tài, hành lang pháp lý phù hợp thay vì chỉ đơn giản là một câu ngắn gọn trong điều lệ thông tư.
Trẻ mang điện thoại vào lớp, có gì mà ngại? Vì sao ngành Giáo dục lại đề ra quy định cho học sinh sử dụng điện thoại? Nó có dựa trên căn cứ, cơ sở khoa học nào không? Điện thoại thông minh chính là thiết bị giúp học sinh tiếp cận giáo dục hiện đại (Ảnh minh họa) Thông tư 32 của Bộ GD&ĐT vừa ban hành, trong đó quy định nhiều...