Đề án 89: Đổi mới học bổng có đưa được tiến sĩ trở về?
“Khi xin được học bổng tiến sĩ ở nước ngoài, ngoài tiền học còn được hơn 30.000 USD sinh hoạt phí, được chi trả cả những khoản như đi lại, thẻ tập gym…, lại chẳng bị ràng buộc phải về nước.
Trong khi đó, những bạn đi du học bằng học bổng 322 hay 911 có mức sinh hoạt phí khá hạn hẹp nên đời sống chật vật, cũng ảnh hưởng tới việc nghiên cứu” – một người Việt đang làm sau tiến sĩ tại Mỹ nhận định.
Những người cùng quan điểm với nữ tiến sĩ này chắc chắn không ít: Kiếm học bổng nào “xông xênh” mà đi, học bổng Nhà nước chỉ là sự lựa chọn cuối cùng.
Những kết quả thực hiện các đề án đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ trước đó như Đề án 322 và nhất là Đề án 911 minh chứng khá rõ cho điều này.
Mặc dù vậy, Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030″ (Đề án 89) mới đây đã gây xôn xao trong cộng đồng nghiên cứu, dù triển khai muộn tới gần 2,5 năm so với thời điểm Đề án được phê duyệt.
Những thay đổi tích cực
Đến nay, tỷ lệ trung bình tiến sĩ trong đội ngũ giảng viên các trường đại học Việt Nam mới đạt khoảng gần 20%. Do đó, lãnh đạo các trường đại học nhìn nhận Đề án 89 rất tích cực và đáp ứng nhu cầu của các trường.
Nếu như đối với các đề án 322, 911, Bộ GD-ĐT trực tiếp tuyển chọn ứng viên thì ở Đề án 89 này, cơ sở giáo dục đại học sẽ tự chủ trong tuyển chọn ứng viên, đề xuất lên Bộ GD-ĐT và tổ chức đào tạo (với 3% đào tạo trong nước) trên nguyên tắc chia sẻ kinh phí giữa Nhà nước và cơ sở đào tạo cử giảng viên tham gia Đề án, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các ứng viên thụ hưởng Đề án.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, quan điểm về kinh phí đầu tư cũng đã thay đổi.
Theo tính toán của ông Đỗ Văn Dũng, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, chi phí đào tạo một tiến sĩ ở nước ngoài trung bình là 30.000 USD/năm và 10.000 USD/năm chi phí ăn ở… Nếu tính thời gian đào tạo là 4 năm thì cần 160.000 USD để 1 giảng viên hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh.
Nếu như ở Đề án 911 đưa ra con số “cứng” là 14.000 tỷ đồng đào tạo 20.000 tiến sĩ, thì trong Đề án 89 không đưa ra số cụ thể. Đề án 89 có nêu: “Tăng mức đầu tư cho đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ đáp ứng đủ chi phí đào tạo, nghiên cứu khoa học, thực hành, thí nghiệm, thực tập và công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí có uy tín trong khu vực và trên thế giới…” và “Kinh phí thực hiện Đề án bao gồm: Ngân sách Nhà nước bố trí theo quy định về phân cấp ngân sách hiện hành, nguồn tài chính của các cơ sở giáo dục đại học và các nguồn huy động hợp pháp khác”. Trong đó, các khoản chi học bổng, học phí, các chi phí cho học viên được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ do ngân sách Trung ương đảm nhiệm.
Điều này được lãnh đạo các trường và các giảng viên đánh giá cao và hy vọng sẽ có khoản chi mạnh tay hơn từ ngân sách. Bởi, theo ông Đỗ Văn Dũng thì “Đào tạo được một người thầy giỏi, bài bản, có chất lượng thì hiệu quả sau này là vô cùng lớn. Chi phí thấp thì không thể đào tạo tiến sĩ có chất lượng”.
“Cho” học bổng rồi vẫn phải “trải thảm” đón về
Sau ‘cái kết buồn’ của Đề án 322, Đề án 911 từng đặt mục tiêu đào tạo bổ sung ít nhất 20.000 tiến sĩ giai đoạn 2010-2020 nhưng đến 2017 đã phải dừng. Bộ GD-ĐT nhận định không thể đạt được mục tiêu theo kế hoạch.
Hàng loạt nguyên nhân đã được mổ xẻ. Nhưng bất cập lớn nhất có lẽ là việc cơ chế chưa đủ thu hút người sử dụng và tuyển dụng lưu học sinh sau khi tốt nghiệp.
“Những ràng buộc về điều kiện đào tạo khiến những người làm NCS phải đắn đo trong khi điều kiện làm việc, chế độ lương bổng sau khi trở về lại không hấp dẫn…” – ông Đỗ Văn Dũng nhận định.
Ông Phạm Sỹ Tiến, người đầu tiên nhận trọng trách điều hành Đề án 322 từng nói: “Điều đáng buồn nhất của đề án là người học được Nhà nước đầu tư rất tốt, nhưng sau khi về nước không phát huy được năng lực của mình, không có môi trường để phát triển nghiên cứu tiếp”.
Do đó, với Đề án 89 “mới tinh” hiện nay, Bộ GD-ĐT nỗ lực khắc phục khâu cuối này bằng cách giao cơ sở giáo dục đại học tự chủ tuyển sinh và đào tạo. Theo bà Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ GD-ĐT thì các cơ sở đào tạo, đơn vị sử dụng cần có chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài. Và khi đó, chính sách sẽ quay trở lại thành động lực để cán bộ giảng viên thực sự có mong muốn nâng cao năng lực trình độ để được ở lại cống hiến cho cơ sở đào tạo trong nước, đồng thời thu hút thêm nhân tài ở bên ngoài.
Trước những thay đổi này, ông Bùi Hoài Thắng, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Bách khoa TP.HCM, nhận xét: “Về bản chất là vẫn phải chủ động đào tạo lực lượng cho chính nhà trường chứ không thể chờ từng cá nhân đi học để chạy về với mình”.
Còn theo ông Nguyễn Xuân Hoàn, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM: Muốn đưa người đi học và trở để về trường cống hiến thì ngoài chi trả toàn bộ học phí, trường còn trả cả thu nhập hàng tháng của họ.
“Hiện Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM thực hiện chế độ đi học cũng như làm việc ở nhà. Vậy nên, gần như 100% người trường đưa đi đều thực hiện việc học đúng tiến độ và về phục vụ trường”.
Ông Hoàn cho rằng nếu Đề án 89 cũng làm như vậy thì sẽ là sự “chống lưng” rất tốt cho các trường.
Ngoài ra, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo, ĐH Quốc gia Hà Nội, để tăng tỷ lệ và chất lượng tiến sĩ cho các trường đại học, thì ngoài việc cấp học bổng, giải pháp rất quan trọng là phải đầu tư xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh…
9X tìm ra vật liệu hấp phụ kháng sinh trong nước thải nhận học bổng tiến sĩ
Nghiên cứu thành công vật liệu có khả năng hấp phụ tới 98% kháng sinh trong nước thải ở năm 3 đại học, bài báo khoa học của Nguyễn Ngọc Trung được tạp chí quốc tế uy tín thuộc nhóm Q1 đăng. Anh vừa nhận học bổng toàn phần làm tiến sĩ ở Úc.
Ngay sau tốt nghiệp đại học, Nguyễn Ngọc Trung giành được học bổng toàn phần của Tập đoàn Vingroup để theo học chương trình tiến sĩ tại Đại học Monash (Úc) - Ảnh: NVCC
Nguyễn Ngọc Trung, K61 khoa hóa học, tốt nghiệp Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội) vào tháng 7-2020. Đề tài nghiên cứu vật liệu hấp phụ chất kháng sinh trong môi trường nước, sau đó ứng dụng xử lý kháng sinh trong nước thải bệnh viện do Trung thực hiện đã được công bố trên tạp chí Journal of Molecular Liquids vào tháng 4-2020.
Đây là tạp chí khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên - kỹ thuật, được xếp vào nhóm Q1, nhóm của những tạp chí uy tín và có vị trí thứ hạng cao.
Lần đầu trong lịch sử khoa hóa học
"Được đăng bài trên tạp chí Journal of Molecular Liquids là một thử thách, ngay cả thầy cô cũng không dễ dàng gì vượt qua, huống hồ là sinh viên. Thông thường những bài được chọn đăng, tác giả phải mất năm đến sáu tháng sửa chữa, hoàn thiện bài báo. Vậy mà đề tài của Trung từ lúc được tạp chí chọn đến lúc đăng chỉ mất khoảng hai tháng.
Lần đầu tiên trong lịch sử khoa hóa học có một sinh viên đứng tên đề tài chính có bài đăng trên tạp chí Q1, với khoảng thời gian chờ đăng rất ngắn" - TS Phạm Tiến Đức, giảng viên khoa hóa học, thầy giáo chủ nhiệm của Trung, cho hay.
Trước đó, Nguyễn Ngọc Trung đã có hai bài báo viết chung với nhóm nghiên cứu do thầy Đức dẫn dắt, đăng trên các tạp chí Q1, Q2. Nghiên cứu vật liệu hấp phụ chất kháng sinh trong nước thải bệnh viện là bài báo khoa học thứ ba của Trung, được đăng trên tạp chí nhóm Q1. Mới đây, nhóm nghiên cứu Trung tham gia có thêm bài nữa đăng trên tạp chí Langmuir , một trong những tạp chí hàng đầu của Hiệp hội Khoa học Mỹ.
TS Phạm Tiến Đức đánh giá rất cao khả năng nghiên cứu độc lập của Trung. Trước khi được đăng bài trên tạp chí Journal of Molecular Liquids , nghiên cứu của Trung đã giành giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trường, giải ba nghiên cứu cấp bộ. TS Phạm Tiến Đức còn đánh giá cao Trung ở khả năng viết nghiên cứu khoa học bằng tiếng Anh. Năm thứ nhất, Trung vẫn còn rất tự ti với tiếng Anh, nhưng chỉ sau 1-2 năm học thêm anh đã bật hẳn lên.
"Nhiều sinh viên có điểm IELTS cao, có cơ sở nghiên cứu tốt nhưng không phải bạn nào cũng có kỹ năng viết nghiên cứu hàn lâm. Đây là một kỹ năng quan trọng, mà Trung lại làm rất tốt", TS Phạm Tiến Đức chia sẻ.
"Học xong muốn quay về phụng sự đất nước"
Nguyễn Ngọc Trung từng học chuyên hóa Trường THPT Nguyễn Huệ (Hà Đông), thuộc nhóm thiểu số tiếp tục đeo đuổi đam mê hóa ở bậc đại học, còn phần lớn bạn bè Trung chọn ngành kinh tế, công nghệ thông tin.
Ở THPT, lực học của Trung thuộc nhóm tốp giữa. "Lúc đó tôi khá ham chơi, chỉ thích đá bóng và cũng không có định hướng gì cả. Đến khi vào đại học, tôi gặp thầy Phạm Tiến Đức, một người đam mê nghiên cứu với hướng nghiên cứu môi trường. Vì hâm mộ thầy, tôi xin được vào nhóm nghiên cứu của thầy khi phân chuyên ngành. Tôi đã học hỏi rất nhiều từ thầy", Trung chia sẻ.
Nguyễn Ngọc Trung, K61 khoa hóa học, tốt nghiệp Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội) - Ảnh: NGỌC DIỆP
"Không hiểu sao vào đại học tôi thay đổi nhận thức, tôi quyết tâm đề ra mục tiêu, kiên trì thực hiện. Năm thứ ba, tôi khá mệt mỏi vì sáng 7h đã có mặt ở phòng thí nghiệm, nhiều hôm 20h tôi mới bắt xe buýt về nhà. Nhưng đến khi làm ra kết quả thí nghiệm với vật liệu nhôm ôxít xử lý được đến 90% kháng sinh trong nước, tôi đã báo cáo ngay với thầy hướng dẫn, cảm giác thật sung sướng", Trung nói.
Tháng 8-2021, theo kế hoạch, Trung sẽ bay sang Úc du học. Chàng trai cao 1,8m này quyết định chọn chuyên ngành về pin và năng lượng tái tạo, khác với chuyên ngành mình đã học đại học. Trung hi vọng trong tương lai không xa Việt Nam sẽ chú trọng đầu tư hệ thống sản xuất amoniac đại trà, đây là nhiên liệu rất có tiềm năng để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch - vốn rất có hại cho môi trường.
"Ước mơ của tôi là làm giảng viên, nghiên cứu viên, phục vụ cho nền giáo dục nước nhà, đào tạo thêm nhân lực cho đất nước", Trung chia sẻ rất giản dị về ước mơ của mình.
Học bổng tiến sĩ cho 7.300 giảng viên: Tuyển chọn ra sao? Từ nay đến năm 2030, sẽ có khoảng 7.300 giảng viên được cấp học bổng đào tạo tiến sĩ tại nước ngoài hoặc phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam và trường đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới Theo Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục...