Dạy trẻ làm chủ tài chính
Theo các chuyên gia, việc thiếu hụt kiến thức nền tảng về tài chính làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch tổ chức cuộc sống sau khi trưởng thành và khiến cách ứng xử của trẻ với đồng tiền bị lệch lạc. Việc dạy trẻ làm chủ tài chính góp phần tương lai bình đẳng.
Theo số liệu thống kê năm 2017 của JA worldwide – một trong những tổ chức phi chính phủ lớn nhất thế giới về giáo dục, trên thế giới, cứ 3 người trưởng thành thì có 2 người “không có hiểu biết về tài chính”, trong đó người trẻ dưới 35 tuổi chiếm 44%.
Còn theo kết quả khảo sát của Save the Children – tổ chức cứu trợ trẻ em, thanh thiếu niên không có kiến thức, kỹ năng trong việc quản lý tiền bạc sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tổ chức cuộc sống sau khi trưởng thành.
Các chuyên gia nhìn nhận, việc thiếu hụt kiến thức nền tảng về tài chính làm ảnh hưởng lớn tới kế hoạch tổ chức cuộc sống sau khi trưởng thành. Điều này còn khiến cách ứng xử của các em với đồng tiền bị lệch lạc.
Việc con trẻ tiêu tiền một cách “phóng khoáng” dễ dẫn tới dùng tiền vào mục đích vô bổ, có hại như game, đồ chơi bạo lực, ma túy…hoặc đôi khi trẻ được nuông chiều quá mức, thường xuyên nhận được tiền từ ông bà, bố mẹ… mà không hiểu vì sao lại dẫn tới nguy cơ ích kỷ, chỉ biết nhận mà không biết chia sẻ hay quan tâm tới người xung quanh.
Diễn đàn Làm chủ tài chính – Tương lai bình đẳng giúp các em học sinh hiểu hơn về đồng tiền và cách dùng tiền hợp lý. Ảnh PT
Nhằm giúp cho các con hiểu và sử dụng tài chính một cách có hiệu quả, ngày 20/1, TƯ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tổ chức diễn đàn “Làm chủ tài chính – Tương lai Bình đẳng” tại trường Marie Curie. Tại buổi diễn đàn, gần 400 học sinh khối lớp 3, lớp 4 đã có những hoạt động trải nghiệm tìm hiểu về vấn đề tài chính hết sức sôi động.
Qua diễn đàn các em được trang bị kiến thức và kỹ năng về tài chính, được trải nghiệm kỹ năng thông qua các hoạt động thực tế tại sân khấu và các kiến thức liên quan cùng các gian hàng trải nghiệm “Nhà đầu tư nhí tài ba”.
Các hoạt của diễn đàn tập trung nâng cao nhận thức và phát triển kỹ năng thực hành trong quản lý tài chính cá nhân. Qua các hoạt động, các em được khơi gợi sự tò mò, kích thích học sinh tìm hiểu, khám phá những kiến thức về tài chính và ứng dụng 4 thói quen sử dụng tiền: Hiểu giá trị đồng tiền, trân trọng sức lao động, tiết kiệm, tiêu tiền và Quyên góp vào cuộc sống.
Đặc biệt, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khi thực hiện chương trình này còn mong muốn hỗ trợ gia đình trong việc giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức của cha mẹ về đồng hành cùng con trong trang bị kiến thức tài chính.
Video đang HOT
Chia sẻ tại diễn đàn, bà Trương Thị Thu Thủy – Trưởng Ban Gia đình- Xã hội, Trung ương Hội LHPN Việt Nam cho hay, nguyên nhân gốc rễ của bạo lực trên cơ sở giới là định kiến giới, là bất bình đẳng giới.
Vị thế của người phụ nữ và quan niệm của xã hội cũng làm cho người phụ nữ bị yếu thế, không thực hiện được quyền bình đẳng của mình. Vì vậy, việc hướng dẫn tự chủ tài chính cho cả bé gái và bé trai sẽ giúp các con có bình đẳng thực chất trong tương lai.
Trong cuộc sống hiện đại, bất kỳ ai với bất kỳ giới tính nào đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận và được tạo cơ hội để phát triển đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Tăng cường hiểu biết về bình đẳng giới và quản lý tài chính sẽ giúp trẻ có hiểu biết toàn diện hơn, vững vàng hơn trong cuộc sống khi trưởng thành.
Học sinh là thế hệ thúc đẩy sự bình đẳng giới trong chính cuộc sống của bản thân để từ đó rút ngắn sợi dây khoảng cách về giới. Điều này sẽ cung cấp cho các em hiểu biết toàn diện là động lực để đóng góp vào sự phát triển của xã hội nói chung.
Các em học sinh sôi nổi tham gia hoạt động trải nghiệm tìm hiểu về tài chính
Theo TS Xã hội học Phạm Thị Thúy (Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia, chuyên viên tâm lý Nhà văn hóa Phụ nữ TP HCM), cha mẹ có vai trò quan trọng trong việc dạy con về giá trị của đồng tiền. Dạy trẻ cách tiêu tiền cũng chính là dạy con trẻ cách làm người, làm chủ bản thân trước sức hút của đồng tiền thời nay.
Việc dùng tiền ở trẻ cần được dạy ngay từ nhỏ. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, chuyên gia nhấn mạnh rằng việc cha mẹ quá chiều hay nghiêm khắc thái quá trong dạy con ứng xử với đồng tiền đều không có lợi. Ngay như việc đưa phần thưởng hay tiền bạc ra khích lệ con cái vô tình lại gieo rắc vào con lối sống cá nhân, thực dụng.
Tốt nhất, cha mẹ cần trao đổi với con về vấn đề tiền bạc bằng cách chia sẻ về bản thân, những lựa chọn, sai lầm và thành công trong cuộc mưu sinh của mình để có được đồng tiền. Trẻ khi biết đồng tiền làm ra cực khổ, biết để dành, tiêu một cách khôn ngoan sẽ dễ thành công hơn trong cuộc sống, quản lý tài chính trong gia đình về sau.
Nguy cơ lao động Việt Nam thất nghiệp cao trước làn sóng công nghệ số
Lực lượng lao động Việt Nam tuy không ngừng phát triển về chuyên môn nhưng chiếm đa số trong nền kinh tế là lao động trong ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật thấp. Đây là nguy cơ thất nghiệp cao trước làn sóng công nghệ 4.0.
Cần đa dạng hóa các hình thức và ngành nghề đào tạo, chú trọng các ngành nghề liên quan đến tự động hóa, nghề kỹ thuật cao - ẢNH: MỸ QUYÊN
76,9% lao động không có chuyên môn kỹ thuật
Giai đoạn 2009 - 2019, lao động có việc làm dịch chuyển tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (từ 53,9% năm 2009 xuống 35,3% năm 2019), tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là, tỷ trọng lao động có việc làm và có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 23,1%, trong khi lao động có việc làm nhưng không có chuyên môn chiếm 76,9%.
Trong đó, các ngành nghề giản đơn chiếm tỷ lệ cao nhất (33,2%); nghề dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng (18,3%); thợ thủ công và các thợ khác (14,5%); thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị (13,2%); nông, lâm ngư nghiệp (7,9%); chuyên môn bậc cao (7,5%); chuyên môn bậc trung: (2,8%); nhân viên (1,8%); quản lý (0,8%). Như vậy, lao động phổ thông, kỹ thuật đơn giản chiếm hơn 75% trong số lao động có việc làm.
Nguy cơ thất nghiệp đối với người lao động Việt Nam
Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi nhanh chóng mọi mặt kinh tế - xã hội, tự động hóa, rô bốt, internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ số sẽ thay đổi mô hình sản xuất, dịch vụ... Tuy nhiên, điều này cũng sẽ làm cho lao động Việt Nam có nguy cơ thất nghiệp cao.
Trước hết, là do năng suất lao động Việt Nam thấp. Mặc dù tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019 cao hơn các nước ASEAN-6, tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), tăng bình quân 4,87%/năm, cao hơn mức tăng của Singapore (1,37%/năm), Malaysia (2,04%/năm), Thái Lan (3,17%/năm), Indonesia (3,59%/năm), Philippines (4,33%/năm), Brunei (giảm 0,32%/năm), nhưng năng suất lao động của Việt Nam năm 2019 vẫn chỉ bằng 7,6% của Singapore, 19,5% của Malaysia, 37,9% của Thái Lan, 45,6% của Indonesia, 56,9% của Philippines và 6,89% của Brunei. Để nâng cao năng suất lao động, doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ dẫn đến người lao động chuyên môn kỹ thuật thấp sẽ thất nghiệp.
Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (2019), trong 10 năm tới, Việt Nam đối mặt với sự thay thế lao động khi ứng dụng công nghệ số, có tới 70% số việc làm ở mức rủi ro cao (xác suất bị thay thế trên 70%). Trong đó, lao động ngành nông, lâm và thủy sản bị máy móc, rô bốt thay thế là 83,3%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo... bị thay thế là 74,4%, bán buôn, bán lẻ 84,1%, dệt may là 83% và điện tử là 75%.
Giải pháp để lao động đáp ứng yêu cầu
Trước hết, thực hiện chiến lược chuyển đối số phải lấy con người làm trung tâm, vì sự phát triển con người, không ai bị bỏ lại phía sau. Công nghệ số sẽ làm cho năng suất lao động cao hơn, nhưng nếu không quan tâm đến những người bị mất việc, thì công nghệ số sẽ tác động đến con người trầm trọng và lâu dài. Vì thế cần tăng cường thu hút đầu tư vào công nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp mạnh hơn để tạo ra nhiều công ăn việc làm.
Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật được nâng lên
Kết quả điều tra dân số năm 2019 cho thấy, trình độ học vấn của lực lượng lao động tăng mạnh ở nhóm trình độ cao và giảm mạnh ở nhóm trình độ thấp. Nhóm có trình độ học vấn THPT trở lên tăng từ 25,6% năm 2009 lên 39,1% năm 2019 (tăng 13,5%), nhóm có trình độ THCS không thay đổi (mức 28,5%), nhóm có trình độ tiểu học giảm 6,1%, nhóm chưa tốt nghiệp tiểu học giảm 5,7% và nhóm chưa đi học giảm 1,7% so với năm 2009...
Kết quả của 4 kỳ tổng điều tra dân số, từ năm 1989 đến năm 2019, tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên khá lớn (năm 1989: 7,3%, năm 2019: 23,1%). Trong đó, trình độ từ cao đẳng trở lên tăng dần từ 1,9% lên 14,5%.
Kế đến, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật hoặc đào tạo nghề mới cho người lao động. Nhu cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật rất lớn, nhất là các lĩnh vực then chốt như: internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, in 3D, kỹ thuật cao, công nghệ thông tin...
Đào tạo để chuẩn bị lực lượng lao động đón đầu làn sóng đầu tư, chuyển dịch sản xuất của doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam thành công mục tiêu kép: phòng chống đại dịch và tăng trưởng kinh tế. Đào tạo chuyên môn kỹ thuật hướng tới mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp đạt trên 70% mà Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày 22.3.2018 của Bộ Chính trị đã đề ra.
Thứ ba, phát triển nguồn lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, nông dân, người dân tộc thiểu số bởi lao động có việc làm nhưng không có chuyên môn kỹ thuật chủ yếu ở nông thôn.
Khuyến khích doanh nghiệp mở trường dạy nghề ở khu vực nông thôn; liên kết đào tạo nghề giữa các trường dạy nghề với các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên các huyện vùng nông thôn. Tiếp tục hỗ trợ đào tạo nghề cho vùng ĐBSCL, Tây nguyên và trung du miền núi phía bắc.
Phát triển giáo dục và đào tạo đồng bộ từ phổ thông đến ĐH. Giáo dục phổ thông, triển khai hiệu quả chương trình giáo dục 2018, tăng cường giáo dục STEM, hoạt động trải nghiệm, nghiên cứu khoa học, ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống; tăng cường giáo dục hướng nghiệp, thực hiện tốt phân luồng sau THCS và THPT theo mục tiêu quốc gia.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, đa dạng hóa các hình thức và ngành nghề đào tạo; chú trọng các ngành nghề liên quan đến tự động hóa, nghề kỹ thuật cao, các nghề dịch vụ, các ngành nghề STEM; mở rộng mô hình đào tạo cao đẳng nghề cho học sinh tốt nghiệp THCS để tiếp nhận tỷ lệ lớn học sinh học nghề.
Các trường ĐH và học viện đổi mới theo phương thức đào tạo kết hợp: vừa trực tiếp và trực tuyến, tăng cường lớp học đảo ngược để tận dụng ngay công nghệ số trong quá trình đào tạo. Mở nhiều ngành nghề mới liên quan đến STEM và các ngành dịch vụ mới như chăm sóc sức khỏe, dịch vụ gia đình; hợp tác, liên kết đào tạo với các trường ĐH quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là các ngành nghề STEM; sinh viên tốt nghiệp có thể học thêm nghề để khởi nghiệp...
Câu chuyện giáo dục: Hoạt động trải nghiệm, đóng tiền nhiều nhưng học chẳng bao nhiêu! Sau đợt kiểm tra cuối kỳ 1, các trường phổ thông bắt đầu cấp tập tổ chức dã ngoại cho học sinh. Hoạt động ngoại khóa giúp học sinh trưởng thành hơn về kiến thức địa lý, lịch sử, kỹ năng sinh hoạt nhóm - T.M Đây là hoạt động giáo dục rất bổ ích. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, hoạt động...