“Dạy ở điểm trường thì cực nhất là đi chở nước sinh hoạt”
Hứng được rồi rồi nhưng mang can nước đó từ dưới hẻm núi lên đến mặt đường để xe máy là rất vất vả, nhiều lúc lên gần đến nơi lại bị trượt chân ngã, đổ hết nước.
“Thời gian đầu đi dạy tại điểm trường trong bản, tôi ở nhà công vụ chung với Ủy ban xã, trạm Y tế…đây là mấy phòng tạm bằng tre nứa, gỗ rất cũ, gió lùa tứ phía.
Hỏi thăm các chị đồng nghiệp rằng nơi sinh hoạt…ở đâu? Các chị nói ở đây không có nước mà phải đi chở từng can cách đây mấy cây số. Mình chưa làm vậy bao giờ nên có hỏi là chở nước như thế nào? Các chị hướng dẫn lấy can nhựa loại 20 lít, dùng đòn gánh buộc ngang sau yên xe máy rồi treo 2 can nước 2 bên.
Nhưng muốn chở được 2 can nước thì tay lái phải vững, nếu không sẽ bị ngã vì đường toàn đá lại còn leo dốc cao ngoằn nghèo. Nghe vậy tôi cũng làm theo và ra nơi lấy nước.
Đây là một mạch nước nhỏ chảy ra từ khe đá dùng chung cho mấy bản quanh điểm trường nơi tôi công tác, cách nơi tôi ở khoảng 2km. Muốn lấy được nước phải xách can nhựa theo con đường mòn đi bộ xuống hẻm núi khoảng 200 mét, xếp hàng cùng người dân đợi đến lượt mình hứng nước. Vào mùa có mưa thì nhanh chứ mùa cạn phải ngồi hứng cả giờ đồng hồ mới đầy được can nhựa.
Hứng được rồi rồi nhưng mang can nước đó từ dưới hẻm núi lên đến mặt đường để xe máy là rất vất vả, nhiều lúc lên gần đến nơi lại bị trượt chân ngã, can nước lăn theo triền dốc xuống phía dưới, phải quay trở lại nhặt can nước rồi leo lên.
Vậy nên mỗi lần đi lấy nước thường mất vài tiếng đồng hồ, chưa kể có nhiều lần chở 2 can nước về gần đến điểm trường lại bị ngã xe đổ hết nước.
Với 2 can nước đó phải dùng rất tiết kiệm, để nấu ăn và rửa mặt nhưng cũng chỉ được vài ba ngày, còn trong tuần khi ở điểm trường thì tất cả việc tắm gội, giặt quần áo… đều phải đợi đến chiều thứ sáu cuối tuần về nhà cách điểm trường hơn 50 km đường rừng, lúc đó mới “giải quyết.
Việc thiếu nước sinh hoạt ở điểm trường này như vậy cứ kéo dài hết năm này qua năm khác khiến cho cuộc sống của tôi cũng như các đồng nghiệp nơi đây rất vất vả.
Mặc dù được sự quan tâm của nhà nước cho xây những bề chứa lớn tại điểm trường nhưng trên thực tế là vùng núi cao không có nguồn nước để dẫn vào, bể xây xong để khô như vậy”.
Cô Lồ Thị Lan, người dân tộc Bố Y – Giáo viên dạy lớp 1 Trường Tiểu học số 2 thị trấn Mường Khương, tỉnh Lào Cai cho biết khi trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam.
Cô Lồ Thị Lan, người dân tộc Bố Y – Giáo viên dạy lớp 1 Trường Tiểu học số 2 thị trấn Mường Khương, tỉnh Lào Cai và các em học sinh của mình. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Cô Lan chia sẻ: “Sinh ra tại xã Thanh Bình, huyện Mường Khương, tốt nghiệp Sư phạm khoa Tiểu học, ra trường tôi nhận công công tác tại điểm trường lẻ trong bản của huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Hồi hộp lo lắng không biết sẽ ra sao, chưa tưởng tượng được khi làm giáo viên đứng trên bục giảng, truyền đạt kiến thức cho học sinh như thế nào? Mọi cảm giác cứ xáo trộn trong tôi.
Hôm đầu tiên đến điểm trường nhận công tác, tôi thấy nhiều chuyện không giống với những suy nghĩ, tưởng tượng của mình trước đó. Khi đi thực tập chúng tôi được trải nghiệm thực tế tại một trường ở thành phố nơi có học sinh, cơ sở vật chất rất tốt.
Sinh ra và lớn lên ở vùng cao nhưng tôi cũng không tưởng tượng được ở nơi này lại có một ngôi trường đơn sơ như vậy, khác xa với nơi mình đã thực tập.
Điều kiện vật chất, đường xá đi lại và sinh hoạt ở vùng này còn rất nhiều khó khăn, hơn nữa các em học sinh rất hạn chế khi giao tiếp bằng tiếng phổ thông”.
Cô Lồ Thị Lan, người dân tộc Bố Y – Giáo viên dạy lớp 1 Trường Tiểu học số 2 thị trấn Mường Khương, tỉnh Lào Cai và các em học sinh trong giờ thể dục. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Học tiếng H’Mông để hiểu học sinh của mình
Cô Lan cho biết: ” Điểm trường nơi tôi dạy với gần 60 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 và đều là người dân tộc H’Mông, các em sống ở các thôn bản cạnh điểm trường.
Từ bé sinh ra chỉ loanh quanh trong bản sâu nên nhận thức rất hạn chế, kể cả phụ huynh các em cũng vậy, việc giao tiếp bằng tiếng phổ thông rất khó và hầu như các em không biết.
Video đang HOT
Khó nhất là dạy môn Tiếng Việt các em lớp 1, lớp 2, tôi mất rất nhiều công sức vì học sinh chưa biết tiếng phổ thông, nếu chỉ đọc cơ bản thì cũng tạm ổn, nhưng khi dạy đến phần luyện từ và câu hoặc tập làm văn thì rất vất vả.
Học sinh bị hạn chế về vốn từ nên hầu hết các tiết dạy tôi đều phải cung cấp, bổ sung thêm vốn từ cho học sinh, phải tìm cách nói làm sao cho các em hiểu được. Trong lớp cũng có một số em thông thạo tiếng phổ thông nên tôi nhờ các em đó nói lại để cả lớp hiểu được.
Có lúc những em đó phiên dịch lại để tôi cũng hiểu được tiếng H’Mông và bản thân tôi cũng đã tự học tiếng H’Mông của học sinh để giúp thuận tiện hơn trong việc truyền đạt kiến thức cho học trò của mình.
Đối với môn Toán cũng vậy, những phép tính nhân, chia, vẽ hình cũng gặp khó khăn vì các em chưa hình dung ra được. Phần bài giải Toán có lời văn nhưng vì vốn từ của các em rất ít nên khi đọc lên các em cũng không hiểu được đề Toán hỏi cái gì, cần làm gì và làm thế nào?
Đối với một số em trong lớp có lực học yếu hơn các bạn, để các em không sợ học tập nên ngoài giờ dạy trên lớp hoặc lúc ra chơi tôi cũng giành chút thời gian để kèm thêm cho đến khi các em đó hiểu bài”.
Cô Lan chăm sóc học sinh tận tình hàng ngày như một người mẹ thứ 2 của các em. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Được phụ huynh học sinh mời đến nhà ăn Tết
Cô Lan cho biết: “Vào những dịp Tết các gia đình trong bản thường mổ lợn và cũng mời chúng tôi đến dự chung vui, phụ huynh học sinh ở đây rất quý giáo viên nên nếu không đến dự là họ buồn lắm.
Khi đến ăn Tết bao giờ cũng được họ mời uống rượu mà phải uống bằng bát, tôi thì không biết uống rượu nên nhiều lúc cứ phải trốn hoặc chỉ dám nhấp môi một chút, nếu không uống người dân cho rằng cô giáo không thật lòng.
Khi ra về nhiều phụ huynh còn tặng cho cặp bánh chưng hoặc một miếng thịt lợn sống được xâu lạt để cầm tay mang về, có lúc lại là những cây rau cải, củ su hào…được trồng tại vườn nhà, món quà tuy đơn sơ nhưng là thể hiện tình cảm của người dân và cũng phần nào giúp cho thầy cô giáo cắm bản như tôi thấy ấp áp trong lòng”.
Tám năm bám 4 điểm trường trong bản
Theo cô lan: ” Điểm trường thứ 3 tôi đến nhận công tác nằm cheo leo trên đỉnh núi và đường đi lại khó khăn hơn rất nhiều so với 2 điểm trường trước và cũng rất khan hiếm nước sinh hoạt.
Lên được điểm trường này chúng tôi phải leo ngược dốc cao 5 – 6 km đường mòn, nhiều lúc bị ngã xe rách cả áo, hỏng xe thì thường xuyên vì đường rất trơn, khó đi, nhiều đoạn phải dắt xe chứ không thể đi nổi vì bùn đất đặc sệt nhất là vào những ngày mưa rét.
Lúc lên trường thì leo ngược dốc và lúc xuống núi cũng vất vả không kém, xe lao nhanh và ngày nào cũng bị ngã xe, ngã nhiều quá nên cũng quen, những lúc như vậy tôi lại cùng đồng nghiệp giúp nhau dựng xe lên rồi đi tiếp mà không ai nói câu gì vì tủi thân.
Tại điểm trường mới tôi được phân công dạy lớp 1, vừa ở mầm non nên những thói quen như ngồi học trong lớp và các hoạt động khác các em đều chưa quen, chúng tôi lại phải từng bước rèn học sinh vào nếp.
Về giao tiếp bằng tiếng phổ thông các em cũng chưa thể bằng học sinh các lớp lớn nên rèn từ cách ngồi, cách cầm bút, làm quen với các chữ cái, tập đọc, tập viết… mọi việc dạy, làm quen ở lớp 1 này đúng nghĩa là bắt đầu.
Nhiều lúc ngồi học nhưng các em không tập trung, có em đang học trong lớp thì bất ngờ chạy ra sân chơi, nhưng lúc như vậy tôi lại ra dỗ dành để các em quay vào học, vất vả nhưng cũng vui lắm anh ạ, các em hồn nhiên, ngây thơ, đáng yêu lắm.
Ngay như trong lớp, nhiều lúc tôi giảng bài nhưng mặt em nào cũng ngơ ngác không hiểu cô nói gì, cô thì nói còn học sinh lại nhìn chăm chú vào cô, thấy vậy tôi hỏi lại bằng tiếng H’Mông là các em có hiểu không? Và đa số các em nói không hiểu.
Vậy nên trên lớp ngoài giảng dạy bằng tiếng phổ thông nhưng có nhiều lúc tôi phải vận dụng vốn từ bản địa để làm sao cho các em hiểu cô giáo nói gì, cứ tiếng phổ thông đan xen tiếng H’Mông, từ đó các em mới hiểu được bài học.
Có câu văn nói về đá nhưng tôi nói mãi học sinh vẫn không hiểu, tôi ra sân lấy một hòn đá mang vào để các em cảm nhận được. Vậy nên trong giờ học tôi phải vận dụng rất nhiều hình thức từ lời nói, cử chỉ…và cả đạo cụ thì các em mới hiểu bài.
Hàng tuần tôi cũng dành 1 đến 2 tiết học để tổ chức các hoạt động ngoại khóa, học múa hát để học sinh có cơ hội trau dồi thêm tiếng phổ thông, tăng thêm vốn từ qua giao tiếp và sau nhưng giờ học như vậy các em rất vui”.
Cô Lan chia sẻ: ” Bố mẹ tôi cũng động viên rất nhiều, con hãy cố gắng, trên đó các đồng nghiệp ở được thì mình cũng ở được chứ sao lại tính bỏ nghề”. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Theo cô Lan: “Hàng tuần tôi cũng dành 1 đến 2 tiết học để tổ chức các hoạt động ngoại khóa, học múa hát để học sinh có cơ hội trau dồi thêm tiếng phổ thông”. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Cô Lan chia sẻ thêm: “Cũng có lúc một vài học sinh vắng mặt, cứ sáng lên lớp thấy thiếu em nào là tôi phải đến ngay nhà em đó tìm hiểm xem tại sao học sinh không đi học?
Có em nói do bố mẹ chưa nấu cơm cho ăn nên không đi học, có em thì ngủ quên vì bố mẹ đi làm nương sớm không gọi, có em sáng ra mải chơi và cũng có em không thích đi học.
Những lúc như vậy tôi lại vận động, nói với phụ huynh chịu khó dậy sớm nấu cơm cho các con ăn để đi học, nhưng có em tôi cũng phải dỗ dành, thậm chí phải nịnh thì mới chịu đến lớp.
Nhìn lại thời gian qua tôi thấy cũng có lúc vui, lúc buồn, lúc đầu mới lên điểm trường tôi cũng trợt có suy nghĩ bỏ nghề vì nơi đây điều kiện thiếu thốn, quá vất vả nhất là thiếu nước sinh hoạt hàng ngày.
Bố mẹ tôi cũng động viên rất nhiều, con hãy cố gắng, trên đó các đồng nghiệp ở được thì mình cũng ở được chứ sao lại tính bỏ nghề?
Những vùng xa đó học sinh rất cần những thầy cô giáo như con, nghe vậy tôi lại tiếp tục lên công tác, ngày tháng dần qua, công việc cuốn hút và tôi cũng thấy thích nghi lúc nào không biết nữa.
Xác định ở đâu cũng sẽ có khó khăn riêng, đã quen rồi nên bây giờ đi chở nước cũng thấy vui anh ạ, nếu được chọn lại tôi vẫn sẽ chọn nghề giáo vì đó là ước mơ từ hồi nhỏ của tôi, vẫn xung phong đi điểm trường.
Đã 9 năm đi dạy học thì có tới 8 năm tôi dạy ở điểm trường trong bản vùng xa, đầy ắp những kỷ niệm với các em học sinh, với người dân thôn bản, với những chuyến đi lấy nước hàng ngày, tuy vất vả nhưng cứ nhìn thấy những ánh mắt hồn nhiên trong trẻo của các em học sinh là tôi như quên hết mọi vất vả, cực nhọc”.
Cô giáo người Bố Y xách từng can nước, 'gieo chữ' nơi khó khăn nhất nước
Cứ sáng sớm hoặc sau buổi chiều tan học, cô Lồ Thị Lan cùng với các thầy cô và các em học sinh chuẩn bị can, đòn gánh để đi lấy nước về phục vụ sinh hoạt và học tập.
Đến với mảnh đất Dìn Chin, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, ai cũng biết nơi đây rất khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, đặc biệt là nước. Nước với người dân ở nơi đây được quý như vàng.
Nước quý như vàng
Hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà có 4 chị em, được đi học là điều khó khăn với cô gái Lồ Thị Lan (dân tộc Bố Y). Trong nhà, mẹ của Lan là người lao động chính. Để được đi học, Lan và các anh, chị em phải tranh thủ phụ giúp mẹ việc nhà như chăn trâu, làm nương, làm rẫy, nấu cơm...
Thấu hiểu sự khó khăn vất vả của mẹ, cô gái Lồ Thị Lan luôn tâm niệm bản thân phải không ngừng cố gắng học tập, theo đuổi ước mơ để trở thành cô giáo của bản, làng.
Sự cố gắng của cô đã được đền đáp xứng đáng, tháng 6/2011 khi hoàn thành chương trình học sư phạm, Lan được nhận quyết định đến công tác tại trường Tiểu học Dìn Chin, xã Dìn Chin, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Cô giáo Lồ Thi Lan trên bục giảng.
Đóng chân ở khu vực giáp ranh biên giới, nhiều năm các thầy cô và học sinh trường Tiểu học Dìn Chin, xã Dìn Chin, huyện Mường Khương, tỉnh Lao Cai luôn trong tình trạng thiếu nước sinh hoạt.
Hàng ngày, ngoài thời gian lên lớp các thầy, cô giáo và các em học sinh trong trường còn phải thay nhau đi xách từng xô nước trong khe núi cách trường gần 1km để lấy nước, nấu ăn và sinh hoạt.
Cứ sáng sớm hoặc sau buổi chiều tan học các thầy cô và các em học sinh chuẩn bị can, đòn gánh để đi lấy nước về phục vụ sinh hoạt. Gọi là lấy nước nhưng thực tế là đi hứng từng giọt nước.
Dường như mỗi can nước là một phép thử về sự kiên nhẫn của người đi lấy nước. " Để có nước sinh hoạt thì thầy, cô và trò phải mang can đi lấy nước về. Mùa mưa còn dễ lấy chứ đến mùa khô thì công việc lấy nước gặp nhiều khó khăn vất vả hơn nữa. Để lấy được nước, các thầy, cô phải đèo can đi hơn 10km để lấy nước. Đi lấy nước xa thì phải xếp hàng đợi, có khi xếp hàng tận 2 tiếng. Một can nước 20 lít có khi chỉ sử dụng được một lần, chính vì vậy nước ở đây được quý như "vàng" ", cô Lồ Thị Lan chia sẻ.
Cách nguồn nước này không xa vẫn có các khe nước khác, nhưng ngặt nỗi để lấy được nước từ đó mang về là phải đi qua nhiều đoạn đường đã lởm chởm, dốc cao, sứng người không mang nổi, có khi mang về đến nhà thì đã bị rơi vãi và đổ hết.
Vất vả xách từng xô nước nên các thầy cô và các em học sinh rất tiết kiệm khi sử dụng. Nước thừa sau khi rửa rau, vo gạo, rửa bát, đĩa lại được dùng để dội nhà vệ sinh, tưới rau...
Ở mảnh đất luôn thiếu nước nên cô Lan luôn mong ước trời đổ cơn mưa. Cơn mưa đối với các thầy cô và học sinh nơi đây quý như vàng. Trời mưa cô Lan và các thầy cô trong trường lại rủ nhau ra người hứng nước nưa để dùng, có khi mang quần áo ra để giặt giũ, rửa bát đũa...
Niềm vui với cô Lan là nhìn các học trò trưởng thành.
Niềm vui là sự trưởng thành của học sinh
Mặc dù sống trong điều kiện khó khăn nhưng bản thân cô Lan rất hạnh phúc vì có bạn bè, đồng nghiệp sống bao bọc nhau như anh em trong một gia đình, luôn hỗ trợ, giúp đỡ nhau mỗi khi gặp khó khăn.
Trường nơi cô Lan công tác 100% học sinh là người dân tộc thiểu số, các em còn hạn chế về ngôn ngữ, tiếng phổ thông nên gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và quá trình truyền tải kiến thức. Nhưng không vì thế mà nản lòng bởi cô Lan cũng là người dân tộc nên rất hiểu những khó khăn vất vả của học trò.
" Các em bị thiệt thòi quá nhiều, mọi thứ phục vụ cho việc học đều thiếu thốn ", cô Lan trầm ngâm chia sẻ.
Chính vì mong muốn để các em không bị mù chữ, rồi tương lai lại phải gắn bó cả đời với nương rẫy mà cái đói, cái nghèo vẫn cứ bám riết lấy các em.
" Tôi thầm nghĩ mình phải chịu khó hy sinh một chút, chấp nhận những khó khăn, tìm tòi, khắc phục những khó khăn đó để dạy cho các em con chữ, giúp các em có kiến thức, hành trang để bước vào cuộc sống trong tương lai ", cô Lan nói.
Để làm được điều đó, trong quá trình giảng dạy cô Lan vừa làm bạn, vừa học tiếng của các em để cùng trò chuyện, hướng dẫn các em cách học, rèn luyện cho các em các kỹ năng sống, động viên khuyến khích các em đi học đều.
Cô Lan rất sợ các em vì khó khăn mà phải nghỉ học để theo cha, mẹ lên nương, lên rẫy. Đã không ít lần cô Lan và đồng nghiệp phải đi vào tận nơi để vận động, gọi học sinh đến trường.
"Mong sao các em không bỏ trường, bỏ lớp" , cô giáo 9X dân tộc Bố Y chia sẻ.
Mỗi lần như vậy bản thân cô Lan lại nghĩ rằng "ai cũng nhận phần dễ thì khó khăn để phần ai". Khi đứng trên bục giảng được nhìn thấy những khuôn mặt ngộ nghĩnh, ngơ ngác của các em trong Cô Lan lại trao dâng bao cảm xúc vừa thấy tội, thấy thương và càng cảm thấy yêu các em, yêu nghề hơn bao giờ hết. Những khó khăn vất vả của mình không là gì khi những điều mình làm có thể mang lại con chữ đến với bản làng cho các em.
Mình đã chọn cho mình nghề giáo, cô Lan chỉ mong được góp một phần sức lực nhỏ bé của mình trong việc reo những ước mơ, đặt những nấc thang đầu tiên cho một thế hệ mới.
Còn gì vui hơn nếu hạt giống gieo trồng năm nào, với biết bao tình cảm, nay lại đơm hoa kết trái. Dù là thầy, cô nào cũng vậy, sẽ thật hạnh phúc và cảm thấy ấm áp khi các em biết đọc, biết viết, biết tính toán, trở thành người có ích cho xã hội.
"Bao nhiêu đấy thôi cũng làm cho cô Lan và các thầy cô ấm lòng rồi" , cô Lan xúc động nói.
Với cô Lan, tuổi trẻ phải khát khao, phải hy vọng, luôn giữ trong mình nhiệt huyết của tuổi trẻ, hun đúc khát khao làm giàu cho bản thân và góp phần là giàu cho chính quê hương, đất nước.
"9 năm là khoảng thời gian không ít cũng không nhiều trong sự nghiệp trồng người nhưng đã đem lại cho tôi biết bao kỷ niệm" , nữ giáo viên trẻ hạnh phúc chia sẻ.
Tâm sự về cô Lan, thầy Trần Văn Hùng, Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học và THCS Dìn Chin chia sẻ : "Cô Lồ Thị Lan là một cô giáo trẻ, nhiệt huyết, giỏi chuyên môn, cô đã đạt được nhiều thành tích trong công tác và là một tổ trưởng giỏi cấp huyện. Trong quá trình công tác luôn luôn được học trò và đồng nghiệp yêu quý. Trong cuộc sống hàng ngày, cô Lan là một người giản dị, hòa đồng, gần gũi với bà con nhân dân và đồng nghiệp... ".
Cô giáo dân tộc Bố Y 'gieo chữ' trên vùng đất khát Cô giáo Lồ Thị Lan (SN 1990, dân tộc Bố Y) đã gần chục năm bám bản bám trường gieo chữ trên vùng cao còn nhiều gian khó mà "khát" chữ và "khát" nước luôn thường trực vây quanh. Cô Lan là một trong những giáo viên dân tộc thiểu số được tuyên dương trong chương trình "Chia sẻ cùng thầy cô năm...