Dạy nghề Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ khi nào?
Tổ chức đào tạo chính quy tại một số trường dạy nghề hình thành cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20 các cơ sở dạy nghề đầu tiên được thành lập với nhiều loại hình: lớp dạy nghề tại xí nghiệp, trường nghề…
Hôm nay 9/10/2021 là kỷ niệm ngày thành lập Tổng cục Đào tạo công nhân Kỹ thuật (Thuộc Bộ Lao động), nay là Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Thuộc Bộ LĐ-TB&XH).
Nhân dịp này, hãy cùng Dân tr í tìm hiểu và khám phá về lịch sử hình thành và phát triển của lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam từ thuở sơ khai đến ngày hôm nay.
Dấu mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành, phát triển lớn mạnh của ngành dạy nghề
Dạy nghề Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của nền văn minh lúa nước và các làng nghề truyền thống. Người Việt cổ xưa truyền nghề cho các thế hệ nối tiếp để sản xuất, duy trì cuộc sống; đó là các hình thức truyền nghề dưới dạng bắt chước tự nhiên thời tiền sử đến bắt chước có ý thức và truyền nghề theo phường, hội.
Cuối thế kỷ 19 đã hình thành tổ chức đào tạo chính quy tại một số trường dạy nghề như trường kỹ nghệ thực hành tại Hà Nội (1898), trường kỹ nghệ thực hành Huế (1889) và trường Bá nghệ Sài Gòn (1889), trường kỹ nghệ thực hành Hải Phòng (1913).
Đầu thế kỷ 20 những cơ sở dạy nghề đầu tiên được thành lập với nhiều loại hình khác nhau như: lớp dạy nghề tại xí nghiệp, trường nghề… Thời kỳ này số lượng học sinh rất ít, chỉ đủ cung cấp cho những ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp khai thác tài nguyên, nhằm đem lại lợi nhuận cho thực dân Pháp.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, mặc dù chưa có điều kiện phát triển, nhưng dạy nghề đã kịp thời đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ quốc phòng, y tế, nông nghiệp, sư phạm… theo hình thức trường lớp nhỏ, ngắn hạn, phân tán trong chiến khu, vùng tự do, vừa làm vừa học, coi trọng thực hành, gắn với thực tiễn, phù hợp với hoàn cảnh “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm chia làm hai miền. Ở miền Bắc ngành dạy nghề đã vươn lên nhanh chóng và có sự hỗ trợ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa đã đáp ứng cả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và thống nhất đất nước.
Do yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam. Ngày 9/10/1969 Chính phủ ban hành Nghị định số 200/CP về việc thành lập Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ Lao động . Đây là mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành, phát triển lớn mạnh của ngành dạy nghề.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật có những thay đổi về tên gọi, cũng như cơ quan quản lý nhà nước.
Ngày 27/11/2014, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật giáo dục nghề nghiệp theo đó hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm 3 trình độ đào tạo là Cao đẳng, Trung cấp và Sơ cấp. Ngày 03/9/2016, Chính phủ ban hành Nghị quyết 76/2016/NQ-CP thống nhất giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
Ngày 03/7/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 29/2017/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, giúp Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý hoạt động giáo dục nghề nghiệp trong toàn quốc.
Video đang HOT
Đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, ngành dạy nghề đã có những đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc: Nhiều cơ sở dạy nghề đã phát triển nhanh chóng, có trường đã được Nhà nước tuyên dương là đơn vị anh hùng; các thế hệ cán bộ, giáo viên, giảng viên và học sinh, sinh viên đã phát huy truyền thống, tiếp bước cha anh viết lên những trang sử vàng cho sự nghiệp dạy nghề trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong toàn ngành đã được đẩy mạnh; các hoạt động như Kỳ thi kỹ năng nghề các cấp (Quốc gia, ASEAN và thế giới) , hội giảng nhà giáo, hội thi thiết bị dạy nghề tự làm… đã trở thành hoạt động thường xuyên từ cơ sở dạy nghề đến toàn quốc và mang lại hiệu quả thiết thực.
Hàng nghìn nhà giáo đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, thành phố và toàn quốc; hàng trăm giáo viên tiêu biểu được nhận giải thưởng Nguyễn Văn Trỗi. Nhiều cán bộ, giáo viên đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
Những chuyên gia kỹ thuật, công nghệ đầu đàn, những công nhân lành nghề bậc cao; nhiều học sinh đã đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi nghề cấp tỉnh, quốc gia và quốc tế. Hàng triệu lao động qua đào tạo nghề đã và đang làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp; trên các công trường, đồng ruộng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị nhân lực có kỹ năng nghề được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức, quy mô tuyển sinh, chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Hệ thống các quy định pháp luật về giáo dục nghề nghiệp từng bước được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển rộng khắp, đa dạng về loại hình và trình độ đào tạo; chất lượng được tăng cường; xuất hiện ngày càng nhiều mô hình đào tạo chất lượng cao, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Sứ mạng của giáo dục nghề nghiệp trong giai đoạn mới
Đánh giá về tình hình phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn vừa qua, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhận định giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến, qua đó đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực…
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì quy mô, cơ cấu và chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội của 1 quốc gia gần 100 triệu dân, 55 triệu lao động đang trong giai đoạn dân số vàng, nhất là trong bối cảnh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, xu hướng tự động hóa, điện tử hóa, số hóa, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn mới, Giáo dục nghề nghiệp có sứ mạng góp phần phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có kỹ năng nghề cao cho tăng trưởng nhanh, bền vững, bao trùm và phát triển kinh tế – xã hội đất nước trong từng giai đoạn. Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về giáo dục nghề nghiệp trong khu vực vào năm 2030 và bắt kịp trình độ các nước tiên tiến vào năm 2045″.
Mục tiêu là phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại và hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động, của người dân và yêu cầu ngày càng cao về số lượng, cơ cấu, chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước.
"Miếng bánh" cao đẳng, phần ai?
Đang có một cuộc tranh luận nảy lửa trong việc quản lý hệ cao đẳng giữa Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Ngày 17/3, Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam (CTĐHCĐ) đã kiến nghị các cấp lãnh đạo có thẩm quyền về việc chuyển hệ thống cao đẳng từ Bộ Lao động, thương binh và xã hội về Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đang có một cuộc tranh luận nảy lửa trong việc quản lý hệ cao đẳng giữa Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Sở dĩ có kiến nghị này theo lý giải của Hiệp CTĐHCĐ Việt Nam, kể từ khi tiếp nhận vai trò quản lý Nhà nước hệ cao đẳng (năm 2015) Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã không làm tròn vai trò quản lý Nhà nước; thậm chí còn liên tiếp mắc phải ít nhất hai sai lầm nghiêm trọng.
Một là, chỉ sau một thời gian ngắn, Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã vội vàng nâng cấp hoặc mở mới hàng trăm trường cao đẳng nghề trong khi vẫn duy trì chương trình đào tạo của hệ thống trường này ở mức dưới "chuẩn", điển hình là các chương trình cao đẳng "siêu tốc". Hậu quả là có nguy cơ nguồn nhân lực cao đẳng đào tạo ra sẽ không được thế giới công nhận.
Hai là, Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã loại bỏ hoàn toàn các chương trình cao đẳng chuyên nghiệp (vốn có ở các trường cao đẳng chuyên nghiệp trước khi chuyển vai trò quản lý Nhà nước từ Bộ Giáo dục và Đào tạo về Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Điều này làm thủ tiêu nguồn nhân lực "kỹ thuật viên", gây méo mó cho cơ cấu nhân lực cần thiết để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước ý kiến nêu trên của Hiệp hội CTĐHCĐ, ngày 13/5, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã có ý kiến phản biện.
Đại diện Bộ này cho rằng, tính đến hết năm 2020, cả nước có 399 trường cao đẳng, trong đó có gần 100 trường được quy hoạch thành trường chất lượng cao đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Các điều kiện bảo đảm chất lượng ngày càng được tăng cường, nhất là các trường cao đẳng với trên 60 trường cao đẳng đạt tiêu chuẩn chất lượng của Úc, Đức, Anh và Mỹ để đào tạo chương trình của nước ngoài tại Việt Nam.
"Việc Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam kiến nghị đổi tên Luật Giáo dục nghề nghiệp thành Luật Giáo dục nghề; đưa trình độ cao đẳng về trở lại bậc giáo dục đại học; đưa quản lý nhà nước về đào tạo cao đẳng về Bộ Giáo dục và Đào tạo còn thiếu những cơ sở khoa học và thực tiễn", đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phản bác.
Đại diện Bộ này cũng khẳng định, chất lượng hiệu quả đào tạo hệ cao đẳng đã được nâng lên, với trên 80% học sinh, sinh viên trong các chương trình chuyển giao từ nước ngoài đã trở thành những chuyên gia, kỹ thuật viên nòng cốt trong các doanh nghiệp FDI, một số tham gia thị trường lao động nước ngoài.
Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 cho thấy, Việt Nam đã tăng 10 bậc năng lực cạnh tranh. Yếu tố kỹ năng đã tăng 4 bậc từ vị trí 97 đến vị trí 93, trong đó điểm chất lượng đào tạo nghề nghiệp nằm trong yếu tố kỹ năng đã tăng từ vị trí 115 đến vị trí 102 (tăng 13 bậc so với năm 2018)...
Bên cạnh đó, đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nhấn mạnh, việc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp sẽ phát huy những lợi thế của ngành.
Đồng thời gắn giáo dục nghề nghiệp với lao động, việc làm, thị trường lao động, an sinh xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp.
"Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để sớm ban hành thông tư quy định khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông và việc giảng dạy văn hóa trung học phổ thông trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp", văn bản của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nêu.
Trong văn bản trả lời Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội còn đưa ra căn cứ khoa học và xu hướng quốc tế. Theo đó, bảng phân loại giáo dục quốc tế của UNESCO 2011 (International Standard Classification of education - ISCED 2011) là một công cụ được thiết kế để phân loại, so sánh các chương trình giáo dục/đào tạo khác nhau, giúp đối chiếu, so sánh các chương trình giáo dục, các loại văn bằng và trình độ. Theo Bảng phân loại này, hệ thống giáo dục, đào tạo bao gồm 9 bậc từ mầm non đến đại học.
Về cơ bản, các trình độ giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam hiện nay phù hợp với ISCED 2011; bậc cao đẳng của Việt Nam hiện nay tương đương với cấp bậc 5 của ISCED (2-3 năm), đầu vào trung học phổ thông.
Đây là chương trình thuộc giáo dục sau trung học (tertiary education) nhưng không phải giáo dục đại học (higher education); chủ yếu định hướng nghề nghiệp để người học gia nhập thị trường lao động.
Trong ISCED không có bất cứ điều khoản nào quy định bậc 5 (cao đẳng) thuộc về giáo dục đại học hay giáo dục nghề nghiệp nhưng định hướng chương trình bậc 5 nghiêng về giáo dục nghề nghiệp.
Trên thế giới không phải nước nào cũng có hệ thống giáo dục theo đúng Bảng phân loại ISCED 2011, vì bảng này chỉ có tính chất để so sánh, phân loại các trình độ giáo dục của các nước.
Thực tế, hiện nay các nước đều đang tồn tại một loại khung trình độ quốc gia, tương đồng với khung trình độ của châu lục hoặc của một khu vực.
Tại Việt Nam, Khung trình độ quốc gia Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 1982/QĐ-TTg đã tham chiếu đến Khung tham chiếu các trình độ ASEAN.
Trước lý giải của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, ngày 17/5, Hiệp hội lại tiếp tục có văn bản phản bác cho rằng, Bộ Lao động, thương binh và xã hội lập luận loanh quanh đối với sai lầm đầu và bỏ qua không nhắc đến sai lầm thứ hai, cho dù hậu quả do cả hai sai lầm đều ở mức nghiêm trọng.
Với lập luận về ISCED-2011 (Bảng phân loại quốc tế về giáo dục) của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Hiệp hội cho rằng điều này thiếu chính xác,
Cụ thể, văn bản giải thích bậc cao đẳng của Việt Nam hiện nay có chương trình thuộc giáo dục sau trung học nhưng không phải giáo dục đại học và cho đây là cấp độ 5.
Tuy nhiên, theo ISCED-2011 thì các chương trình thuộc "giáo dục sau trung học nhưng không phải là giáo dục đại học" chỉ thuộc cấp độ 4 còn các chương trình cấp độ 5 (cao đẳng), cấp độ 6 (cử nhân), cấp độ 7 (thạc sỹ) và cấp độ 8 (tiến sỹ) mới thuộc giáo dục đại học (tertrary education).
"Có lẽ xuất phát từ quan niệm sai như trên khi nghiên cứu ISCED-2011 nên đội ngũ tham mưu của Bộ Lao đông, thương binh và xã hội đã trình lãnh đạo Bộ ký ban hành một loạt văn bản không chính xác khi chỉ đạo triển khai hệ cao đẳng, mặc nhiên đưa hệ này xuống dưới "chuẩn quốc tế" một cấp độ", Hiệp hội CTĐHCĐ Việt Nam nêu ý kiến.
Cả Hiệp hội và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đều có những lý lẽ đanh thép để bảo vệ quan điểm của mình. Vậy về phía các cơ sở giáo dục, họ nghĩ gì, liệu việc chuyển cơ quan chủ quản có quan trọng với họ?
Một số lãnh đạo trường cao đẳng khi được hỏi cho rằng khi chuyển về Bộ Giáo dục và Đào tạo trường sẽ thuận lợi hơn trong hoạt động và tuyển sinh.
Sở dĩ như vậy là do ngay sau khi trường cao đẳng chuyển giao về Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trường cao đẳng ngay lập trường bị loại khỏi dữ liệu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo khiến công tác tuyển sinh của các trường gặp không ít khó khăn.
Một số ý kiến thì cho rằng, nhìn tổng thể việc phân chia mảng, miếng quản lý trong ngành Giáo dục còn nhiều bất hợp lý.
Theo đó, hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý cả giáo dục phổ thông với 20 triệu người học và hệ thống đại học khoảng 2 triệu người. Số lượng hơn 22 triệu người học nêu trên là quá nặng với Bộ này.
Nên chăng tách riêng ra hai mảng để thuận tiện quản lý. Mảng giáo dục trước lớp 12 do một Bộ quản lý, giáo dục sau lớp 12 do một Bộ khác quản lý.
"Quan trọng là xây dựng được mô hình hợp lý và cách thức quản lý thế nào thôi, việc Bộ nào quản mảng cao đẳng không quan trọng", lãnh đạo một trường cao đẳng cho hay.
Vài ý kiến khác thì cho rằng không muốn xáo trộn, không muốn có bất kỳ sự thay đổi nào vì chưa biết đong đếm lợi ích nhưng những bất lợi do thay đổi cơ quan chủ quản kéo theo hàng loạt giấy tờ, thủ tục hành chính sẽ khiến họ vô cùng mệt mỏi.
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái thí điểm mô hình dạy nghề song bằng quốc tế Trường Cao đẳng nghề Yên Bái đang thí điểm chương trình đào tạo song bằng quốc tế. Tấm bằng này được công nhận tại các nước châu Âu. Thí điểm mô hình dạy nghề song bằng quốc tế Trường Cao đẳng nghề Yên Bái (Văn Phú, TP.Yên Bái) là 1 trong 40 trường nghề trên cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê...