Đại học Bangor đầu tư cho nghiên cứu để phát triển
Đại học Bangor đề cao hoạt động nghiên cứu, hơn 70% nghiên cứu của trường xếp hàng đầu thế giới theo khung đánh giá chất lượng nghiên cứu REF 2014.
Tài chính ngân hàng – lĩnh vực nghiên cứu thế mạnh
Trường Kinh doanh Bangor thuộc Đại học Bangor đứng hàng đầu về giảng dạy và nghiên cứu với đa dạng các ngành học từ bậc đại học đến tiến sĩ. Theo RePEc, tính đến tháng 1/2019, trường này nằm trong top 50 thế giới với các nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng. Trường cũng đạt điểm trung bình 2,81 trong khung đánh giá chất lượng nghiên cứu mới nhất theo REF 2014 với 68% nghiên cứu được đánh giá cao về tính chất độc đáo, có tầm ảnh hưởng và mức độ tinh nhuệ cao. Trường xếp thứ 26 tại Vương quốc Anh về cường độ nghiên cứu theo khung REF 2014.
Đại học Bangor có thế mạnh truyền thống về nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng. Ảnh: Hội đồng Anh.
Trường Kinh doanh Bangor đã thu hút nhiều sinh viên quốc tế theo học, đặc biệt là trong lĩnh vực Dịch vụ Tài chính và Ngân hàng khi Bangor. Các tài liệu, bài báo nghiên cứu của giảng viên được xuất bản thường xuyên trên tạp chí. Sách của giảng viên được xuất bản cho độc giả trên toàn thế giới.
Nghiên cứu về dịch vụ tài chính
Trong những năm gần đây, một số giảng viên tư vấn cấp cao cho Ủy ban Châu Âu, Ngân hàng Thế giới và Bộ Tài chính Vương quốc Anh.
Có thể kể đến nghiên cứu “Dịch vụ tài chính: Cạnh tranh, ứng xử & bảo vệ người tiêu dung”. Nghiên cứu đã tiếp cận một số vấn đề chính trong quy định tài chính, cạnh tranh và quản trị công ty ở lĩnh vực ngân hàng. Công tác nghiên cứu cũng đã kiểm tra giá cả trên thị trường tài chính và đánh giá các vấn đề về hành vi của doanh nghiệp với trọng tâm là bảo vệ người tiêu dùng.
Các nghiên cứu về Tài chính – Ngân hàng của đại học Bangor tác động đến nhiều văn bản, chính sách ban hành ở Anh và liên minh châu Âu. Ảnh: Hội đồng Anh.
Ví dụ, một nhóm nghiên cứu của nhà trường đã đưa ra chính sách đơn giản hóa các điều khoản và điều kiện của tài khoản vãng lai cá nhân với lợi ích khách hàng ước tính trong 10 năm trên toàn liên minh châu Âu, nằm trong khoảng từ 2352,21 – 4582,90 triệu euro. Nghiên cứu xem xét sự phức tạp của sản phẩm và sức ì của khách hàng trong tài khoản vãng lai cá nhân và thị trường tiền gửi tiết kiệm tiền mặt.
Công việc nghiên cứu cung cấp bằng chứng rằng giá cả bị ảnh hưởng bởi sự phức tạp của sản phẩm cung cấp và sức ì trong việc ra quyết định của khách hàng; một lĩnh vực thường bị bỏ qua trong nghiên cứu học thuật và chính sách. Công trình này đã được trích dẫn trong nhiều văn bản chính sách ban hành ở Anh và liên minh châu Âu. BBC cũng đã đưa tin về công trình nghiên cứu này nhiều lần.
Nghiên cứu về Tín dụng và rủi ro
Trường Kinh doanh Bangor có một nhóm nghiên cứu về xếp hạng tín nhiệm, được thành lập vào năm 2008. Nhóm bao gồm hai giáo sư, ba giảng viên cao cấp hoặc chính, thành viên liên kết, các nhà nghiên cứu ngoài tổ chức và các nghiên cứu sinh theo học Tiến sĩ.
Các thành viên của nhóm đã tiến hành nghiên cứu với hai trong số các tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn nhất toàn cầu và hai nhà cung cấp dữ liệu quốc tế hàng đầu. Toàn bộ nghiên cứu của nhóm đã được xuất bản trên các tạp chí học thuật được quốc tế công nhận. Nghiên cứu được các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Viện Phân tích Tài chính Chartered (CFA) trích dẫn. Nghiên cứu là cơ sở tài cho Cơ quan Thị trường và Chứng khoán Châu Âu (ESMA) tham vấn về việc xác nhận xếp hạng tín dụng.
Nhờ tham gia các nghiên cứu này, nhiều nghiên cứu sinh Tiến sĩ đã được đảm nhiệm các vị trí giảng dạy hoặc các công việc khác (bốn trong số họ là người Việt Nam). Nghiên cứu đang tiến hành đề cập đến các lựa chọn của các công ty về thời gian đáo hạn nợ, sự cạnh tranh giữa các tổ chức xếp hạng, quy định của các tổ chức xếp hạng và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với các ưu đãi bỏ phiếu.
Video đang HOT
Văn hóa nghiên cứu liên ngành
Nghiên cứu ở Đại học Bangor đã thay đổi cuộc sống của nhiều người trên thế giới theo cách khác nhau ở mọi lĩnh vực như: thực phẩm, môi trường, sức khỏe, an sinh, kinh tế, luật pháp và đất đai.
Trên các lĩnh vực nghiên cứu cốt lõi, Đại học Bangor đã phát triển văn hóa nghiên cứu liên ngành mạnh mẽ, có ý nghĩa và quy mô đối với các mối quan tâm quan trọng của quốc gia và toàn cầu.
Nghiên cứu về địa phương tập trung mạnh vào các thế mạnh đặc biệt của vùng bắc xứ Wales là trọng tâm. Nhà trường cam kết sẽ thực hiện nhiều nghiên cứu hơn nữa liên quan các nguồn lực độc đáo của địa phương như: Môi trường tự nhiên – năng lượng; Năng lượng tái tạo từ biển; Du lịch; Di sản – biểu diễn; Nghệ thuật sáng tạo; Văn hóa và sức khỏe; Phúc lợi và dịch vụ y tế.
Ở Đại học Bangor, sự phát triển của các nhà nghiên cứu trong tương lai rất được coi trọng và đầu tư. Nghiên cứu sinh sau đại học của trường được chọn các lĩnh vực nghiên cứu sở trường của họ đồng thời được trải nghiệm giáo dục chất lượng cao tại trường riêng dành cho Tiến sĩ.
Đại học Bangor quan tâm đầu tư đến sự phát triển của các nhà nghiên cứu. Ảnh: Hội đồng Anh.
Đại học Bangor là một trong những trường tích cực tham gia vào trung tâm và chương trình đào tạo Tiến sĩ tại Anh. Đại học Bangor thay mặt cho tất cả các trường đại học xứ Wales, quản lý chương trình Tiến sĩ hoặc MRes KESS II – chương trình về lĩnh vực kinh doanh của xứ Wales do chính phủ Wales khởi xướng.
Đại học Bangor cam kết hỗ trợ các nhà nghiên cứu trẻ phát triển các kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật nghiên cứu và quản lý dự án cần thiết để thu hẹp khoảng cách giữa tiến sĩ với nghiên cứu sinh sau tiến sĩ và xa hơn nữa là đảm nhiệm vai trò lãnh đạo các nghiên cứu độc lập.
Về cơ sở vật chất, nghiên cứu sinh có một văn phòng kế hoạch mở, máy tính xách tay có quyền truy cập các tạp chí và phần mềm. Sinh viên ngành tài chính ngân hàng, nghiên cứu sinh có thể truy cập kho dữ liệu rộng lớn. Nghiên cứu sinh còn có thể được các quỹ hỗ trợ trong việc thu thập dữ liệu và tham dự hội nghị.
Tiến sĩ Việt dạy đại học ở Úc: 'Việt Nam có thể xuất khẩu giáo dục'
Dù đang là giảng viên tại Đại học Deakin (Úc), các nghiên cứu của GS.TS Trần Thị Lý phần nhiều vẫn hướng về Việt Nam.
Nữ giảng viên Việt ở ngôi trường uy tín nước Úc
GS.TS Trần Thị Lý được biết tới là nhà nghiên cứu tiềm năng của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Úc. Chị có một "gia tài đồ sộ" với hàng trăm công bố khoa học, trong đó nổi bật với các dự án nghiên cứu xuyên quốc gia. Năm 2019, chị là nhà khoa học nữ người Việt có số lượng công bố quốc tế nhiều nhất trong lĩnh vực khoa học xã hội, dựa trên dữ liệu Scopus.
Trước khi trở thành một nhà khoa học có tên tuổi tại Úc, chị Lý từng tốt nghiệp ĐH Huế và được giữ lại làm giảng viên của ngôi trường này.
GS.TS Trần Thị Lý - Giảng viên Đại học Deakin (Úc)
"Con đường đến nước Úc của tôi giống như một cơ duyên. Đó là vào năm 2001, tôi được Chính phủ Úc cấp học bổng thạc sĩ tại Đại học Monash", chị Lý kể.
Học tập tại Úc, chị nhận ra rào cản lớn nhất của du học sinh là việc phải thích nghi với môi trường học tập và nghiên cứu tại nước bạn.
"Trong những năm qua, dù đã có những đổi mới tích cực, nhưng chương trình đại học của mình vẫn còn khá ôm đồm về khối lượng kiến thức và nặng nề về kiểm tra, thi cử.
Ví dụ, khi còn học bậc cử nhân ở Việt Nam, chúng tôi phải trải qua cả chục môn trong một học kỳ với nhiều bài kiểm tra khác nhau. Đến khi sang học thạc sĩ ở Đại học Monash, tôi chỉ phải học 2 - 3 môn mỗi kỳ.
Chúng tôi thường nói với nhau rằng: "Không biết phải làm gì cho hết thời gian bây giờ". Nhưng sau này khi vào học, chúng tôi mới thấy được sự khác nhau, là cho dù có học 2 hay 3 môn mỗi kỳ thì chúng tôi vẫn buộc phải nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, chú ý nghe giảng và phải biết tổng hợp, phân tích, phản biện để việc học đạt hiệu quả cao nhất".
Hơn một năm sau đó, cô gái Việt đã bảo vệ luận văn thạc sĩ, giành được tấm bằng hạng ưu và giải thưởng sinh viên quốc tế xuất sắc nhất ngành Giáo dục. Tiền đề này đã giúp chị tiếp tục theo đuổi lên bậc tiến sĩ và có cơ hội làm việc tại một số trường đại học của Úc.
Các nghiên cứu của chị Lý phần nhiều hướng về Việt Nam.
Sau một thời gian công tác tại Đại học Monash và Đại học RMIT, năm 2013, chị Lý được mời về giảng dạy tại Đại học Deakin.
Ngày đầu đi dạy, nhiều sinh viên quốc tế bất ngờ trước một giảng viên người Việt có vóc dáng nhỏ, gương mặt trẻ trung. Mặc dù cũng từng gặp phải những lần nhầm lẫn là "sinh viên mới", nhưng chị Lý cho rằng, uy tín trước sinh viên không đến từ tuổi tác hay chức vụ mà là vốn kiến thức và cách truyền đạt của giảng viên.
Vì thế, có những môn học dù đã giảng dạy suốt 6 - 7 năm, nhưng nữ giảng viên người Việt vẫn tiếp tục tìm tòi, đổi mới và chuẩn bị bài vở nghiêm túc trước khi bước vào tiết dạy.
"Nhiều sinh viên thấy được cái tâm của mình nên rất tôn trọng cô giáo. Các bạn sinh viên cũng tỏ ra thích thú mỗi khi được nghe ví dụ về văn hóa hay phương pháp dạy học của Việt Nam".
Nhà khoa học với những dự án xuyên quốc gia
Năm 2017, GS.TS Trần Thị Lý được Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Úc công nhận là nhà nghiên cứu tiềm năng.
Có cơ hội cộng tác với các đồng nghiệp ở nhiều trường đại học khác nhau trên thế giới, trong đó có các đồng nghiệp Việt Nam, nữ giảng viên sinh năm 1975 nhận ra, khả năng "tuần hoàn chất xám" và liên kết xuyên quốc gia giúp ích rất nhiều cho năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ.
"Trong thời điểm hiện tại, việc các nhà khoa học ở đâu thực ra không còn quan trọng nữa. Và dù ở đâu đi chăng nữa, họ cũng có rất nhiều cơ hội để làm việc và đóng góp trong lĩnh vực mình yêu thích", chị Lý nói.
Suốt 23 năm qua, nữ giáo sư người Việt đã hợp tác với hơn 70 học giả và các nhà nghiên cứu tại nhiều quốc gia trên thế giới như Úc, Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Hồng Kông, Mỹ, Anh và Hà Lan,...
Các đề tài của chị chủ yếu liên quan đến hợp tác quốc tế và thúc đẩy dịch chuyển quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đại học, trong đó luôn có phần nhiều hướng về Việt Nam.
Năm 2017, GS.TS Trần Thị Lý được Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Úc công nhận là nhà nghiên cứu tiềm năng.
Một dự án của chị do chính phủ Úc tài trợ tập trung vào việc phân tích tác động từ hiện tượng thực tập và học tập ngắn hạn của sinh viên Úc ở Việt Nam thông qua chương trình New Colombo Plan.
"Đây được xem là hiện tượng dịch chuyển sinh viên ngược. Chúng ta hay nói đến việc sinh viên Việt Nam đi du học, nhưng với dự án này, chúng tôi đã nghiên cứu một hiện tượng khá mới mẻ nhưng rất quan trọng và có tiềm năng lớn với Việt Nam, đó là việc sinh viên của những nước phát triển như Úc, Mỹ, Anh sang Việt Nam học hoặc thực tập ngắn hạn".
Theo chị Lý, một điều khá bất ngờ là Việt Nam đang trở thành điểm đến đứng thứ 4 của sinh viên Úc cho các khóa học và thực tập ngắn hạn, sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.
Thống kê của Bộ Ngoại giao Úc cho thấy, từ năm 2014 đến 2018, số lượng sinh viên Úc sang học và thực tập ở Việt Nam được tài trợ bởi chính phủ Úc theo chương trình New Colombo Plan tăng đến 5 lần và đạt hơn 3.600 sinh viên vào cuối năm 2019.
Cơ hội "xuất khẩu giáo dục" của Việt Nam
Qua dự án này, chị Lý mong muốn tìm hiểu, đưa ra khuyến nghị nhằm xây dựng Việt Nam thành điểm đến được ưa chuộng và bền vững của sinh viên Úc.
Sinh viên Úc khi đến Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều điều, không chỉ về kiến thức chuyên môn, ngôn ngữ, văn hóa mà còn là cầu nối quan trọng giúp tăng cường hợp tác quốc tế hóa giáo dục, trao đổi sinh viên, kinh tế và ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Úc.
"Tôi cho rằng, để phát huy những tiềm năng này, trước tiên Việt Nam cần phải có tổ chức đại diện cho các trường đại học ở Việt Nam đứng ra quảng bá hình ảnh. Bên cạnh đó, ngành giáo dục cần phải hợp tác chặt chẽ với các ngành khác như du lịch, văn hóa, ngoại giao để xây dựng hình ảnh Việt Nam là một điểm đến thu hút đối với sinh viên Úc.
Ví dụ, với các khóa học 3 tháng, chúng ta có thể dành 1 tháng cho sinh viên học tập tại các trường đại học, đi thực tập 1 tháng và 1 tháng còn lại kết hợp với ngành du lịch để giúp sinh viên tìm hiểu văn hóa, đời sống của người dân Việt. Nhờ thế, các khóa học này sẽ thú vị hơn".
"Nếu làm được như thế, Việt Nam có thể xuất khẩu giáo dục, đặc biệt trong mảng học, thực tập ngắn hạn. Dựa vào tiền đề này, 5 - 10 năm nữa, chúng ta có thể tiến đến xuất khẩu giáo dục cho những khóa học dài hạn để lấy bằng cử nhân, thạc sĩ ở Việt Nam", chị Lý nói.
Ngoài dự án này, nhiều nghiên cứu khác của chị Lý cũng tập trung vào vấn đề quốc tế hóa giáo dục trong đổi mới giáo dục tại Việt Nam. Thông qua các nghiên cứu, chị nhận thấy, Việt Nam hiện chưa có một chiến lược ở tầm quốc gia cũng như chính sách thiết thực để hỗ trợ các trường phát huy tiềm năng trong việc quốc tế hóa giáo dục.
"Trong khi đó, Việt Nam hoàn toàn có thể phát huy khả năng quốc tế hóa giáo dục thay vì chỉ là nước 'nhập khẩu' giáo dục hay quốc tế hóa manh mún và chỉ tập trung vào vay mượn chương trình, dùng tiếng Anh làm phương tiện hướng dẫn", chị Lý khẳng định.
GS.TS Trần Thị Lý sinh năm 1975 tại thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Năm 2019, chị được Tạp chí Forbes vinh danh là 1 trong 50 phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam.
Tháng 12/2020, GS.TS Trần Thị Lý nhận giải thưởng Noam Chomsky - Ngôi sao Tỏa sáng về Thành tựu trong nghiên cứu 2020 và có ảnh hưởng sâu sắc tới việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu xuyên quốc gia.
Thầy giáo 57 tuổi với hành trình 8 năm học tiến sĩ Một giảng viên ĐH vừa được trao bằng tiến sĩ ở tuổi 57. Với tâm niệm học để 'làm gương' cho sinh viên, ông đã mày mò suốt 8 năm không mỏi mệt để hoàn thành chương trình học tại Trường ĐH Bách khoa TP.HCM. Ông Nguyễn Vinh Quan vừa nhận bằng tiến sĩ ở tuổi 57 - HÀ ÁNH Những giải thuật...