Con chữ mọc lên từ lòng đất
Đời sống của bà con Bru – Vân Kiều đang gặp nhiều khó khăn nhưng giáo dục không ngừng phát triển, thậm chí vươn lên vô cùng ấn tượng. Những con chữ ở các bản Eo Bù – Chút Mút, Bạch Đàn, Tăng Ký, Tân Ly, Xà Khía, Mụ Mệ (bản Mới) như thể mọc ra từ lòng đất.
Trường PTDTBT TH&THCS Lâm Thủy
Màu trắng tinh khôi của những bộ đồng phục, ánh mắt trong veo như suối khe của học trò làm phai màu đất đỏ dưới chân của các em học sinh đến trường. Trong tiếng cười của đồng bào lấp lánh khát vọng, ước mơ về thế hệ trẻ. Thế hệ sẽ giữ gìn sắc màu Bru Vân Kiều. Có điều, họ sẽ đến với khoa học kỹ thuật, đến với những tư tưởng tiến bộ, văn minh hơn.
Nơi chúng tôi đến công tác là Lâm Thủy – biên giới vùng cao, miền tây của huyện Lệ Thủy. Nơi có những cô giáo, thầy giáo đã hiến tuổi thành xuân của mình trên dãy Trường Sơn hùng vĩ. Họ là những “chiến binh quả cảm” băng rừng, vượt suối khai phá trường lớp trước đây. Họ là những người trẻ trung thực, trong sáng, hết lòng vì giáo dục hiện nay.
Cách đây hơn một thập kỷ, bên cạnh mỗi lớp học tre nứa đơn sơ bao giờ cũng có ít nhất một căn nhà nhỏ bé khiêm tốn bằng tre nứa. Căn nhà ấy là nơi ở của các thầy cô giáo trong suốt thời gian dài với những ngày dài, vui buồn lẫn lộn, thương nhớ mênh mang. Lớp học là những bàn ghế ghép tạm bằng gỗ rừng do phụ huynh mang đến. Trên bàn làm việc có chiếc đèn dầu khói bốc lên đen sì. Sáng ra áo quần, mũi của giáo viên đầy khói (lộ nghẹ) thế nhưng trang giáo án vẫn cứ thơm mùi hoa rừng.
Những lá thư nhà nhàu vết thời gian quẹt mòn vì đọc đi đọc lại quá nhiều lần. Thời gian như củng cố thêm tình yêu của họ nơi địa đầu biên giới này, có hôm khi vào mắc màn ngủ, các thầy cô giáo phát hiện ra rắn mai đang nằm trong chăn ấm. Mọi người rú lên xua đuổi, sau đó đóng chặt tất cả các lỗ thủng ở căn phòng của mình. Có thầy trên đường vào bản bắt cả con trăn cố tình ngáng đường.
Các cô giáo, thầy giáo bám bản, bám lớp lâu dần thành đôi, thành vợ thành chồng gắn bó cho đến ngày nay. Khi tôi hỏi muốn “về xuôi” hay không, tất cả đều trả lời muốn ở lại, lý do đơn giản vì ở đây quá nhiều kỷ niệm. Về xuôi sẽ nhớ rừng, nhớ suối, nhớ bản không chịu nổi. Vả lại đường sá đi lại bây giờ đã thuận tiện hơn rất nhiều. Không còn cảnh đi bộ nửa ngày trời, không còn đi vòng từ Trường Sơn (huyện Quảng Ninh) lên. Nay đã có điện, có trạm y tế khang trang và ngôi chợ tạm đã hình thành có người bán, kẻ mua. Đặc biệt, ở đây lương bổng “khá” để trang trải và phụ giúp anh em, bố mẹ dưới xuôi.
* * *
Các anh chị ở xa lên Lâm Thủy làm từ thiện rất ngạc nhiên vì ở phòng các cô giáo không có mùi phấn son, nước hoa, kem dưỡng da như thường thấy. Thay vào đó là mùi nước mắm, mùi cá khô, mùi tôm tép và cả mùi ngai ngái, ẩm thấp của căn phòng chật hẹp. Áo quần các cô, các thầy không nhiều và không đẹp vì họ còn đi bản, còn vận động học sinh có nguy cơ bỏ học.
Rồi họ phải tự đi lấy nước, đi suối, vượt khe khi đến các bản lẻ dạy học. Cô Hà dạy ở bản Eo Bù – Chút Mút, cô Sương dạy ở bản Bạch Đàn là những cô giáo vừa mới ra trường, tình nguyện băng núi, vượt khe để có thêm trải nghiệm nghề nghiệp. Gặp chúng tôi họ bảo buồn vì ít người giao tiếp nhưng vui dân bản yêu thương, nhà trường đặc biệt quan tâm, hỗ trợ.
Video đang HOT
Mỗi ngày, thầy Cường, thầy Phương, thầy Dũng thay nhau đi các bản để dạy môn chuyên biệt. Khó khăn là thế song chưa bao giờ họ đi chậm một phút nào. Ở lâu, họ thành người của bản, ăn với bản, ngủ ở bản và nói tiếng Bru – Vân Kiều rất thành thục. Thầy Toàn – Phó Hiệu trưởng của Trường PTDTBT TH&THCS Lâm Thủy đã thành “giáo sư” tiếng BRu khi biên soạn cuốn “Tài liệu tiếng BRu – Vân Kiều”, “Vận dụng sổ tay song ngữ Tiếng Việt – Bru Vân Kiều vào các giờ học toán” và trở thành giáo viên tiếng Bru của cả tỉnh Quảng Bình trong thập niên qua.
* * *
Ở Lâm Thủy, khi nhắc đến dốc Ba – Ba, ai từng lên đây đều rợn ngợp bởi sự cheo leo, hiểm trở của nó. Các thầy cô giáo dưới xuôi lên, đi đường 10 tới đỉnh dốc, dõi mắt về phía con đường mòn vắt hững hờ trên lưng chừng núi, nhìn sương mờ giăng giăng mỗi sáng hoặc vạt nắng mạ con đèo buổi chiều thầm nghĩ đến con chữ khấp khuỷu, ghập ghềnh rồi như thấy ánh mắt của học trò lay láy nhìn vào tận tâm khảm để thêm khát khao, yêu thương, cống hiến.
Vào mùa mưa như những ngày này, nước các con suối ở bản Bạch Đàn lên cao, đường lên bản Eo Bù – Chút Mút sạt lở nghiêm trọng. Những đống đất hàng tấn nhão nhoẹt tràn xuống đường, đá trên cao trăm mét rơi xuống rào rào. Thật may, chúng thường diễn ra vào ban đêm. Những lúc như thế chẳng ai dám đi lại trên đường. Trước đây, vào mùa mưa gió, lớp học vắng gần nửa, bàn ghế trong phòng học như rộng thêm, thầy cô giáo như trống vắng với nỗi niềm nghẹn ngào khó tả về công tác xóa mù, phổ cập giáo dục.
Gió mùa Lâm Thủy rít từng hồi mang theo hơi lạnh của đá núi, mái nhà sàn của bà con Vân Kiều run bần bật. Mưa như thét gào, xối xả tắm táp núi rừng vừa gấp gáp, vừa dai dẳng. Con đường vào bản mòn trơn trượt như có cả ngàn tấn dầu ăn đổ xuống. Sóng điện thoại di động chập chờn ẩn hiện như tiếng vượn hú vừa gần vừa xa. Thi thoảng chúng tôi gọi cho người nhà dưới xuôi, đang trò chuyện tự dung mất hút. Hình như là “sóng ảo” thì phải. Trong công việc, người hiểu thì không sao, người không hiểu chúng tôi đành thất lễ.
Khi đến đây nhận công tác, tôi bắt tay vào tìm hiểu thực tế của đồng nghiệp. Khu vực nội trú trong trường giờ thành lập một “Câu lạc bộ gia đình trẻ” với 8 cháu nhỏ. Họ cùng công tác cách đây hơn 10 năm rồi yêu nhau lấy nhau như sự sắp đặt của tạo hóa. Mới năm ngoái thôi, cô N.T.H vừa mới nộp đơn xin nghỉ thì trở dạ. Cả trường điện thoại mới gọi được xe, đi được 4 km cô đã sinh trên xe. Một cháu trai ra đời, khôi ngô, tuấn tú. Chắc tại cái mặn mòi của cái nắng, cái khúc khuỷu của núi rừng làm cho họ trở nên mạnh mẽ hơn chăng.
Và chính trên mảnh đất này, hết thế giáo viên này đến thế hệ giáo viên khác cõng chữ lên đây bằng tình yêu mật ngọt. Họ như trút trao tuổi thanh xuân của mình cho núi rừng xanh thẳm, cho những khát vọng yêu thương, dẫu họ biết còn khá lâu nữa mới thay đổi được.
Mà không tự hào sao được khi Trường PTDTBT TH&THCS Lâm Thủy là trường bán trú đầu tiên của khu vực miền núi Quảng Bình, trường đạt lá cờ đầu của thi đua cấp tỉnh. Để có được điều này, chúng tôi lại nhớ triết lý, hạnh phúc là sự hy sinh, còn nơi đây, nhiều người hy sinh hạnh phúc cho sự nghiệp chung. Các thầy, cô giáo vùng cao đáng tự hào ở chỗ ấy.
Với Lâm Thủy nói riêng và giáo dục miền núi hiện nay, việc duy trì, ổn định số lượng học sinh, nhất là đối với học sinh THCS, gặp rất nhiều khó khăn do các em nghỉ học để lao động kiếm sống với cha mẹ, hoặc do phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, để duy trì, nuôi dạy học sinh bán trú là điều không hề dễ dàng. Khó khăn hiện nay là dù đã được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nhưng nhà ở nội trú cho học sinh vẫn rất chật chội (15 – 16 học sinh/phòng).
Ngoài ra, hàng năm, cứ đến mùa khô vào khoảng tháng 8 – 9, giáo viên của trường phải rất khó khăn, vất vả, băng rừng tìm nguồn nước tự chảy dẫn về khuôn viên nhà trường phục vụ sinh hoạt cho khu nội trú vì nguồn nước chính phục vụ cho trường cách khoảng 2km khô hạn. Vượt lên tất cả, với sự nỗ lực của tập thể giáo viên và tình thương và trách nhiệm của mỗi thầy, cô giáo đã góp phần xây dựng ngôi trường ngày càng lớn mạnh, tỷ lệ học sinh đến trường cao, hiện tượng bỏ học và nghỉ học giảm dần.
Dưới mái Trường PTDTBT TH & THCS Lâm Thủy, nhiều thế hệ học sinh cũ của nhà trường, bây giờ cũng đã thành đạt nhiều, như Hoàng Kim, Hồ Huy, Hoàng Văn Hoàng. Năm học vừa qua, trường cũng có nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi các môn Sinh học, Vật lý, Văn học, Khoa học – Kỹ thuật, hội thi thể thao cấp huyện. Đặc biệt, trong dạy và học, năm học 2018 -2019, ở cấp tiểu học, toàn trường có 67% học sinh được khen thưởng toàn diện và từng mặt; Cấp THCS có 8,3% học sinh đạt loại giỏi, 24,8% học sinh đạt loại khá.
Ông Hoàng Bảo, già làng bản Xà Khía vỗ vai tôi nói : “Cây rừng sống được nhờ rễ bám vào lòng đất. Con chữ đến với bản làng cũng vậy. Già đã nghe tiếng con suối, con khe nó reo. Reo vì con chữ đẹp như suối, đẹp như tóc con gái của bản trên suối ngàn mỗi chiều”.
Lâm Thủy, ngày 11/10/2019
Bút ký của Ngô Mậu Tình
Theo GDTĐ
Từ học trò dốt nhất lớp đến thầy giáo giỏi cõng chữ lên đỉnh Trường Sơn
Đường dẫn vào trường phải băng qua 9 con suối lớn, 2 con suối nhỏ, qua hàng chục km đường đèo cheo leo, nhưng thầy Thiểu vẫn miệt mài còng chữ lên non.
14 năm nay, những người dân bản nơi vùng núi rừng Trường Sơn giáp biên giới Việt- Lào thuộc xã Lâm Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình đã quen với hình ảnh thầy giáo trẻ 8x Trương Bá Thiểu dáng người nhỏ nhắn miệt mài băng thác, vượt ghềnh đến từng nhà vận động học sinh đến lớp.
Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Lâm Thủy nơi thầy Thiểu công tác nằm trên địa bàn đặc biệt khó khăn của huyện Lệ Thủy. Trường có 3 khu vực lẻ đều cách xa điểm trường trung tâm hàng chục cây số.
Thầy Trương Bá Thiểu miệt mài với hành trình cõng chữ lên non hơn 10 năm nay.
Theo người dân nơi đây, cũng đã có không ít giáo viên từng đến Lâm Thủy cắm bản, nhưng nhiều người vì không chịu nổi cái thách thức của núi rừng Trường Sơn mà phải xin về thị xã. Thế nhưng suốt 14 năm qua, kể từ khi từ tốt nghiệp đại học, thầy Trương Bá Thiểu vẫn miệt mài hàng ngày cõng con chữ lên non để những đứa trẻ nơi đây được biết đến cái chữ, đến thế giới nhiều màu sắc ngoài vách núi cheo leo.
Không những bám bản, mà thầy Trương Bá Thiếu còn thành công trong sự nghiệp trồng người khi nhiều năm liền là giáo viên giỏi, là tổ trưởng tổ chuyên môn Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Lâm Thủy. Thầy Thiểu cũng là giáo viên duy nhất của tỉnh Quảng Nam được Sở GD-ĐT chọn vinh danh trong chương trình Chia sẻ cùng thầy cô năm 2019.
"Tôi từng là học sinh dốt của lớp"
Kể về hành trình đến với nghề giáo, thầy Trương Bá Thiểu tâm sự, sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo thuộc mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió cát. Gia đình đông con, lại nghèo, những ngày tuổi thơ, thầy Thiểu đã quen với cảnh cơm không đủ ăn, mỗi bữa mẹ đều phải nhịn ăn để nhường cơm, khi là khoai sắn cho con.
"Gia đình khó khăn lắm, nhưng vì là con út, nên tôi vẫn may mắn được bố mẹ, anh chị đùm bọc cho đi học. Nhưng khi còn nhỏ, tôi rất nghịch, lúc nào điểm số cũng đứng gần cuối lớp. Đến khi tôi học lớp 12, mẹ tôi bệnh nặng, tôi định xin nghỉ học để phụ giúp gia đình. Nhưng khi sức khỏe đã rất yếu, mẹ vẫn cầm tay tôi thều thào nhắn nhủ rằng bà muốn tôi được học hành đến nơi đến chốn. Lúc ấy tôi nhận ra rằng, dù có phải vật lộn với những cơn đau khủng khiếp, thì với mẹ tôi chính là niềm hy vọng lớn lao. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, ngoài những buổi đi làm thuê, tôi lao vào học để thực hiện ước mơ trở thành thầy giáo ngay từ khi còn nhỏ. Vì trước đó rất lười học, nên khi ấy tôi đã phải học rất vất vả. Cuối cùng cánh cổng trường ĐH Quy Nhơn cũng rộng mở, đón tôi về với khoa Giáo dục tiểu học", thầy Thiểu kể.
Tốt nghiệp ra trường, thầy Thiểu về Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Lâm Thủy. Trải qua 14 năm gieo chữ tại vùng biên giới Việt-Lào, cũng là từng ấy năm thầy đảm nhận công tác chủ nhiệm. Trong đó có đến 11 năm thầy xung phong công tác tại các điểm khu vực lẻ sát biên giới Việt -Lào.
Đường đến trường cheo leo là thế!
Đến với huyện vùng núi, con đường đến trường của thầy Thiểu và những học sinh là những chuyến "phượt" băng qua rừng rậm, vượt qua suối sâu. Thậm chí có những lúc nước lớn cuốn trôi cầu, thầy Thiểu phải hành quân bằng những chiếc bè tự chế.
Hết suối, lại đến những cung đường gập ghềnh dốc đá che leo, hết dường gập ghềnh lại đến trường đất lún sâu, trơn trượt.
"Nhiều lúc tôi cứ nghĩ đó có phải là đường không nhỉ. Dẫu đó đã từng có con đường đi ngang qua nhưng chỉ sau những trận mưa xối xả ở vùng sơn cước con đường ấy giờ còn lại thế này đây. Chưa kể mỗi lần đi dạy ở các điểm trường lẻ, có khi phải đi bộ đến 20km đường rừng, trèo đèo lội suối", thầy Thiểu kể.
Đường đến trường gian nan là thế, nhưng với những giáo viên cắm bản như thầy Thiểu, điều khó khăn hơn nữa là vận động những đứa trẻ đến trường. Để dạy và có thể vận động các em đến trường, thầy Thiểu cho biết bản thân thầy và các đồng nghiệp phải tự học tiếng và làm quen với văn hóa của đồng bào Bru-Vân Kiều nơi đây. "Phải giao tiếp được với đồng bào, thông hiểu tập quán và sống hòa đồng với bản làng thông qua đó mới có thể vận động các em đến trường và dạy Tiếng Việt cho các em".
Cắm bản ngay từ khi vừa mới tốt nghiệp đại học, mỗi khi đêm đến giữa đại ngàn Trường Sơn, bên những trang giáo án với ngọn đèn dầu leo lắt, nỗi nhớ nhà lại bủa vây thầy giáo trẻ, cồn cào, da diết. Nhưng có lẽ chính tình yêu trẻ, yêu nghề cùng tình cảm mộc mạc của bà con dân bản Bru- Vân Kiều đã giúp thầy Trương Bá Thiểu vượt qua tất cả.
"Những lúc nhớ nhà quá, tôi lại nghĩ đến hình ảnh các em học sinh. Những ngày đầu các em tập viết, em nào cũng cầm bút như cầm khúc gỗ. Các em khiến tôi nhớ lại tuổi thơ của chính mình và thương các em nhiều hơn. Qua những ngày được động viên học tập, các em đã bắt đầu biết làm những phép tính, viết chữ đẹp không kém gì các bạn dưới xuôi. Đó cũng là khi lòng tin của tôi được đền đáp. Tôi thực sự hạnh phúc"!, thầy Thiểu nói.
Được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, giờ đây việc đi lại đã bớt vất vả, trường lớp được đầu tư khang trang hơn. Song bên cạnh niềm vui trước những đổi mới, thầy Thiểu luôn trăn trở, suy nghĩ về những khó khăn của trường lớp. Đó chính là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học. Làm thế nào để khoảng cách của các em đến với kiến thức không còn quá xa so với đồng bằng. Những câu hỏi đó luôn thôi thúc người thầy ấy không ngừng cố gắng và nỗ lực nhiều hơn nữa./.
Theo VOV
Nhìn đồng nghiệp cắm bản để yêu công việc của mình hơn Quan hệ thầy trò được xác lập bằng bức ngăn kinh tế, vẫn tồn tại khái niệm "có đi có lại mới toại lòng nhau". Chúng ta vẫn thường hay nói, nghề dạy học bây giờ vừa khó khăn vừa vô cùng áp lực. Điểm trường Đán Mẩy (Ảnh minh họa của Báo Giáo dục và thời đại) Thế nhưng nếu so sánh...