Chương trình chất lượng cao cần kiểm soát và giám sát chặt chẽ
Thông tư 23/2014/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT khẳng định mục đích đào tạo chất lượng cao (CLC) trình độ ĐH là: “Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ ĐH ở những cơ sở đào tạo có đủ điều kiện nhằm đào tạo nguồn nhân lực có tính cạnh tranh cao trên thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Nhưng ở đây, có thực tế là cách hiểu về chương trình CLC không đồng nhất, dẫn đến yếu tố đầu vào có không ít tranh cãi, vậy, chương trình CLC phải có những điều kiện đảm bảo nào để phát triển đúng hướng?
Theo đánh giá, chương trình đào tạo CLC đã mang lại những hiệu quả tích cực trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu hội nhập. Ở những trường thực hiện nghiêm túc Thông tư 23, chất lượng đào tạo đã được xã hội tín nhiệm, tỷ lệ có việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp ở một số trường khá cao, có nơi cao hơn cả hệ đại trà.
Trong bối cảnh học phí ĐH còn thấp, nguồn thu từ các chương trình CLC giúp các trường đầu tư cải thiện được điều kiện cơ sở vật chất dạy học, phòng thí nghiệm; nâng cao thu nhập cho đội ngũ, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Việc thực hiện tốt mô hình CLC cũng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các trường ở trong nước cũng như quốc tế. Nhiều chương trình CLC của các trường đã tuyển sinh được sinh viên nước ngoài.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần có sự giám sát kỹ càng với các chương trình CLC. Ảnh: P.T
Video đang HOT
Tuy nhiên, nhìn vào các chương trình CLC hiện nay cũng có không ít những băn khoăn. Ví dụ như tại một số trường, chương trình CLC đang phát triển khá nóng. Trường ĐH Tài chính Marketing TPHCM đến nay đã có 5/11 ngành tuyển sinh CLC. Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM đào tạo 17 chương trình CLC/39 chương trình đào tạo, chiếm tỷ lệ gần 44%. Trường ĐH Tôn Đức Thắng, chương trình đại trà có 39 ngành thì hệ CLC cũng theo sát đến 26 ngành.
Tuy nhiên, vấn đề của các ngành CLC này lại là điểm đầu vào có những tranh cãi. Một số cơ sở đào tạo đã định ra những mức điểm chuẩn đầu vào thấp hơn nhiều so với đại trà để tranh thủ nguồn tuyển. Không chỉ thấp 1 – 2 điểm, có ngành, có nơi điểm chuẩn CLC còn thấp hơn trên 5 điểm so với đại trà. Điều đó đặt ra những băn khoăn cho rằng: Phải chăng không đỗ đại trà, bỏ học phí cao hơn là có thể học ngành CLC? Nếu đúng theo mô hình này, thì chương trình CLC phải là chương trình dịch vụ CLC mới đúng tên gọi. Theo ông Phạm Như Nghệ, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD&ĐT) thì: Làm sao gọi là chương trình CLC được khi thí sinh thi chương trình thường thì không trúng tuyển nhưng thi vào chương trình CLC lại trúng tuyển? Cần phải cân nhắc điều này.
Điểm nổi bật nhất của chương trình CLC là chú trọng kỹ năng ngoại ngữ. Chương trình đào tạo của chất lượng được bổ sung từ giáo trình của nước ngoài nên việc thuần thục tiếng Anh là yêu cầu bắt buộc cho sinh viên khi tốt nghiệp, có nơi đòi hỏi phải đạt Ielts 4.5 – 5.5 đầu ra. Nhưng cũng có trường hợp đỗ ngành CLC, không đáp ứng được chương trình trong quá trình học, lại được chuyển sang các lớp đại trà.
Mới đây, Bộ GD&ĐT đưa vào Dự thảo Quy chế tuyển sinh 2020 vấn đề liên quan đến chương trình CLC. Tại khoản1 Điều 16 trong Dự thảo quy định điểm trúng tuyển chương trình CLC phải bằng hoặc cao hơn trúng tuyển chương trình chuẩn cùng ngành. Bộ cũng cho rằng tăng cường hậu kiểm, kiểm định chất lượng các chương trình CLC là để đảm bảo đào tạo CLC đúng như tên gọi. Về phía mình, các trường ĐH được quyền phát huy vai trò tự chủ trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo trách nhiệm tuân thủ các quy chuẩn chất lượng và trách nhiệm trước xã hội.
Trên thực tế, chương trình CLC cũng có nhiều ưu điểm. Với số lượng một lớp học ít, sinh viên chương trình CLC có điều kiện phát triển kỹ năng mềm. Giảng viên thường xuyên tổ chức các hoạt động nhóm, quản lý học tập qua dự án. Qua đó, SV phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc chung trong một nhóm, khả năng trình bày ý tưởng và thuyết trình trước đám đông. Sinh viên học hệ CLC cũng được chú trong trau dồi kỹ năng ngoại ngữ.
Vì thế, khi bàn về những quy chế mới cho chương trình CLC, một số ý kiến cũng đề nghị không nên quy định điểm trúng tuyển đối với ngành học chương trình CLC như hiện tại, mà nên để các trường quy định chuẩn CLC. Bởi đó là sự cam kết về danh dự, uy tín của chính nhà trường. Sau đó, Bộ có những quy chế về kiểm tra, giám sát, chế tài liên quan nếu chương trình đó không đảm bảo chuẩn đầu ra như các trường đã cam kết trong đề án tuyển sinh của nhà trường.
T.Fan (phapluatxahoi.vn)
Chương trình chất lượng cao: Phải đúng như tên gọi
Thông tư 23/2014/TT-BGDĐT khẳng định mục đích đào tạo chất lượng cao (CLC) trình độ ĐH là: "Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ ĐH ở những cơ sở đào tạo có đủ điều kiện nhằm đào tạo nguồn nhân lực có tính cạnh tranh cao trên thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới".
Ảnh minh họa/INT
Thông tư này đã hợp pháp hóa cho một số chương trình CLC thí điểm trước đó và tạo điều kiện cho nhiều trường ĐH mở hệ CLC về sau. Ở cả trường công lẫn tư, sau Thông tư 23, tốc độ tăng trưởng chương trình CLC so với chương trình đại trà diễn ra khá nhanh. Như Trường ĐH Tài chính Marketing TPHCM đến nay đã có 5/11 ngành tuyển sinh CLC, chỉ tiêu từ 300 thí sinh (năm 2012) đến nay đã chiếm 1/3 tổng chỉ tiêu. Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM đào tạo 17 chương trình CLC/39 chương trình đào tạo, chiếm tỷ lệ gần 44%. Trường ĐH Tôn Đức Thắng, chương trình đại trà có 39 ngành thì hệ CLC cũng theo sát đến 26 ngành.
Chương trình đào tạo CLC đã mang lại những hiệu quả tích cực trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu hội nhập. Ở những trường thực hiện nghiêm túc Thông tư 23, chất lượng đào tạo đã được xã hội tín nhiệm, tỷ lệ có việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp ở một số trường khá cao, có nơi cao hơn cả hệ đại trà.
Đặc biệt, trong bối cảnh học phí đại học còn thấp, nguồn thu từ các chương trình CLC giúp các trường đầu tư cải thiện được điều kiện cơ sở vật chất dạy học, phòng thí nghiệm; nâng cao thu nhập cho đội ngũ, tránh tình trạng chạy máu chất xám. Việc thực hiện tốt mô hình CLC cũng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các trường ở trong nước cũng như quốc tế. Nhiều chương trình CLC của các trường đã tuyển sinh được sinh viên nước ngoài.
Tuy vậy, việc tăng trưởng quá nóng của loại hình CLC cũng đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Do chỉ tiêu hệ CLC nằm trong tổng chỉ tiêu tuyển sinh của tất cả các hệ nên các trường càng tăng tỷ lệ này, nhất là ở trường công đồng nghĩa thu hẹp tỷ lệ hệ đại trà, ảnh hưởng đến cơ hội của thí sinh muốn học hệ này. Nhiều ý kiến về vấn đề công bằng giáo dục cũng được đặt ra từ thực tế này.
Một thực trạng đáng quan ngại khác, bên cạnh những trường làm tốt công tác đào tạo CLC, vẫn có không ít nơi thực hiện chưa tốt quy định. Sức hút học phí CLC quá lớn nên vì đảm bảo về mặt tài chính, một số cơ sở đào tạo đã định ra những mức điểm chuẩn đầu vào thấp hơn nhiều so với đại trà để tranh thủ nguồn tuyển. Không chỉ thấp 1 - 2 điểm, có ngành, có nơi điểm chuẩn CLC còn thấp hơn trên 5 điểm so với đại trà.
Đầu vào hạn chế hơn hệ đại trà, lại đòi hỏi cao về tiếng Anh nên nhiều sinh viên không theo kịp chương trình. Có trường, vì để chạy theo năng lực còn hạn chế của sinh viên, sau vài năm đào tạo bằng tiếng Anh, lại quay lại dạy bằng tiếng Việt. Thực trạng này đã khiến dư luận nghi ngại về ba chữ CLC. Đến nỗi, ông Phạm Như Nghệ, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD&ĐT) đã kêu lên rằng: "Không thể gọi là CLC mà là chương trình dịch vụ cao, vì rớt chương trình đại trà thì lại vào chương trình CLC!".
Phát triển các chương trình CLC là hướng đi đúng trong bối cảnh đổi mới, hội nhập giáo dục đại học nhưng chính sách học phí lại quá thấp như hiện nay. Những tồn tại phát sinh trong thực tiễn thực hiện chương trình CLC đòi hỏi phải có sự kiểm soát và giám sát chặt chẽ.
Mới đây, Bộ GD&ĐT đưa tuyển sinh CLC vào Dự thảo Quy chế tuyển sinh 2020 hay tăng cường hậu kiểm, kiểm định chất lượng các chương trình CLC là những động thái cần thiết về mặt quản lý để đảm bảo đào tạo CLC đúng như tên gọi. Về phía mình, các trường đại học được quyền phát huy vai trò tự chủ trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo trách nhiệm tuân thủ các quy chuẩn chất lượng và trách nhiệm trước xã hội.
Tâm An
Theo giaoducthoidai
Thầy tâm huyết, trò tích cực Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo học sinh mũi nhọn, BGH Trường THPT chuyên Lý Tự Trọng (TP Cần Thơ) luôn chú trọng trang bị kỹ năng mềm cho các em, đích đến là thầy tâm huyết, trò tích cực. Hành trình bằng xe đạp thăm di tích lịch sử luôn được các em HS hào hứng đón nhận Gia đình, nhà trường...