Câu chuyện về người thầy đã “bỏ nghề y theo nghề giáo”
31 tuổi, ông Qúy quyết tâm thi đỗ đại học Sư phạm để mang con chữ đến với những học trò nghèo vùng cao và nhận nuôi cậu bé mồ côi người Xê Đăng.
Đậu đại học ở tuổi 31
Tốt nghiệp ngành Y trường Trung cấp Y tế Quảng Nam, ông Võ Đình Quý (56 tuổi, ở thôn Nam Phước, xã Đại Tân, huyện Đại Lộc, Quảng Nam), có bảy năm liền công tác tại Trạm Y tế xã Đại Chánh (huyện Đại Lộc).
Thầy giáo Võ Đình Quý (trái) và con nuôi Hồ Văn Bằng. Ảnh: Anh Trúc
Khi cảm thấy ngành y dường như “hết duyên” với mình, ông Qúy quyết định rẽ ngang, bắt đầu cuộc chinh phục nghề “lái đò” chở chữ cho trò.
Năm 1996, khi đó thầy Qúy đã ở cái tuổi 31, cái tuổi dường như nhiều người sẽ tính đến chuyện lo làm ăn để chăm lo cho vợ con. Nhưng ông lại suy nghĩ và có một quyết định khiến nhiều người không khỏi ngỡ ngàng.
Thầy Quý nhớ lại: “Người ta hay bảo nghề chọn mình. Thời điểm còn công tác tại trạm y tế xã, bản thân tôi cảm thấy đã hết duyên với nghề y nên quyết định xuống thị trấn Ái Nghĩa ôn thi Đại học.
Trong năm đó, bản thân rất vui mừng khi mình đậu vào Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, chuyên ngành Tiếng anh”
Sau khi cầm giấy quyết định trúng tuyển trong tay, thầy Quý đành gửi gắm người vợ trẻ cùng hai con thơ lại quê nhà để ra Đà Nẵng chuyên tâm học tập.
“Bây giờ nhờ lại cái cảm giác ngày ấy vẫn còn lâng lâng! Thời đó khó khăn lắm, ngày nhận quyết định nhập học, vợ giã từng hạt thóc, sàn gạo để mình khăn gói đi học, nhìn cảnh đó nước mắt cứ thể chảy ra”, thầy Quý nhớ lại.
Theo thầy Quý, để đậu vào được chuyên ngành tiếng Anh là một nỗ lực không hề nhỏ, bởi khi đó rất ít người theo đuổi chuyên ngành này, hơn nữa chuyên ngành này cũng rất khó.
Sau thời gian dài cố gắng không ngừng, năm 2000, thầy Quý tốt nghiệp đại học.
Video đang HOT
“4 năm chỉ chuyên tâm học tập nên không lo được gì cho vợ con cả. Đến khi ra trường, về xin dạy hợp đồng theo lịch trống các trường trên địa bàn huyện Đại Lộc nhưng với đồng lương quá ít ỏi nên cũng gặp vô vàn khó khăn”, thầy Quý chia sẻ.
Cuộc gặp gỡ định mệnh
4 năm gắn với nghề dạy chữ, một lần nữa thầy Quý lại tiếp tục cắp sách đi thi và đậu công chức.
Thầy Quý nói: “Thời điểm đó, những con chữ, con số còn là thứ xa lạ đối với đồng bào vùng cao. Nên khi đậu công chức, tôi quyết định xin lên giảng dạy tại điểm Trường phổ thông dân tộc bán trú – trung học cơ sở Trà Cang huyện vùng cao Nam Trà My (Quảng Nam)”, thầy Qúy nói.
Trong trí nhớ của thầy Quý, lần đầu lên tới trường thì mọi thứ còn muôn vàn khó khăn.Đời sống đồng bào chủ yếu dựa vào nương ngô, rẫy sắn nên còn thiếu thốn.
Cứ vào ngày mùa học sinh lại theo cha mẹ lên rẫy, vì vậy để “bắt” trò ra lớp là công việc hàng ngày, hàng tuần. Vậy nhưng thầy vẫn kiên trì thuyết phục được các phụ huynh. Còn các cháu bé cũng bắt đầu tin và yêu con chữ.
“Khi lên đây dạy, vì điều kiện đi lại khó khăn nên mỗi dịp Tết mới được về nhà để bên cạnh vợ con. Lúc tóc tai chởm dài, thầy trò và đồng nghiệp trong trường tự cắt cho nhau.
Điều sợ nhất là vào mùa mưa, núi lở, học sinh thì ở xung quanh nhà nội trú, nhiều khi thầy trò ăn canh rau nấu với muối, cuối tuần mới có thời gian đi hái măng rừng”.
Trong một lần dẫn đoàn học sinh ra thị trấn Tắk Pỏ (huyện Nam Trà My) để cõng lương thực về trường, thầy Qúy đã gặp Hồ Văn Bằng (13 tuổi), người đồng bào Xê Đăng.
Bằng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải làm thuê, cõng hàng để “đổi cơm” trong tiệm tạp hóa bên bến sông Tranh.
“Thời điểm tôi gặp Bằng là lúc em ấy đang ngồi nấu rượu với ánh mắt đượm buồn, khi tôi hỏi em có muốn đi học không? Bằng liền đáp…dạ có ạ!
Dù đi học nhưng vì miếng cơm manh áo, cậu học trò này vẫn xin làm phụ việc trong một quán ăn. Hàng ngày vẫn “cõng hàng để đổi cơm” cho no bụng”, thầy Qúy nghẹn lại khi nhắc đến đứa con nuôi của mình.
Tình nghĩa thầy trò – cha con
Thấy hoàn cảnh đáng thương của Bằng, hàng ngày sau những giờ lên lớp, thầy Quý lại tìm đến thăm và động viên. Tình cảm giữa hai thầy trò ngày càng sâu nặng và thầy Qúy đã quyết định nhận Bằng làm con nuôi.
Vì muốn được gần gũi, chăm sóc vợ con sau thời gian dài xa cách, tháng 8/2006, thầy Qúy xin chuyển công tác về huyện Đại Lộc.
“Khi biết tin tôi xin về quê nhà, thằng Bằng xin theo về cho bằng được. Vì không muốn xa con, cũng như mong muốn bù đắp cho Bằng có cuộc sống thiếu thốn tình cảm nên hai cha con dắt nhau về”, thầy Qúy nhớ lại.
Anh Hồ Văn Bằng cho biết, được làm con của bố Qúy là niềm hạnh phúc lớn lao của mình. Hai bố con đã trải qua những năm tháng khó khăn, cùng nương tựa vào nhau trong những ngày bám trường, bám bản.
Ngày trở lại vùng cao Nam Trà My để thăm mọi người, hai bố con thầy Qúy được đồng bào, học sinh đón tiếp như những người thân lâu ngày trở về quê. Món quà hai cha con trao gửi lại người dân nơi đây là những ký cá khô, gia vị.
Hiện nay, anh Bằng cũng đã lập gia đình và đã có một cô con gái năm nay 9 tuổi và ở gần nhà với thầy Quý.
“Về dưới này cuộc sống khác hẳn, bây giờ chỉ mong khỏe mạnh để kiếm tiền nuôi gia đình và đền đáp công ơn nuôi dưỡng của bố Quý”, anh Bằng tâm sự.
Cô giáo bị ung thư vẫn tiếp tục hành trình "trồng người"
Cô Hằng gần như suy sụp khi biết tin mình mắc căn bệnh ung thư quái ác. Nhưng chính tình thương với học trò nghèo đã giúp cô có đủ nghị lực chống lại bệnh tật, làm thiện nguyện, nâng bước trẻ đến trường.
Mặc dù mắc bệnh ung thư, nhưng cô Hằng vẫn luôn hết lòng vì trò nghèo.
Mong điều tốt đẹp nhất cho học trò
Cô Nguyễn Thuý Hằng (SN 1985, thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, Gia Lai) lớn lên ở huyện biên giới còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Từ nhỏ, cô luôn mong muốn trở thành một giáo viên để tiếp thêm sức mạnh cho học trò nghèo trên đường tìm con chữ. Sau khi tốt nghiệp ra trường, năm 2008 cô Hằng về làm giáo viên phụ trách Chi đội tại Trường Tiểu học Kim Đồng (thị trấn Ia Kha).
Ngày mới về trường, cô Hằng chứng kiến học sinh của mình đến lớp với những bộ quần áo không lành lặn. Thương cho hoàn cảnh của học trò tuy nghèo nhưng vẫn nỗ lực đến lớp. Với mong muốn tiếp thêm sức mạnh để các em đến trường, cô Hằng đã tổ chức nhiều hoạt động, chương trình ý nghĩa. Không những vậy, cô cũng tự tìm tòi, học hỏi để xây dựng những câu lạc bộ phát triển năng khiếu cho học sinh huyện biên giới Ia Grai.
"Khi đến trường, mình thấy các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Ngay cả bộ quần áo mặc trên người cũng không được tươm tất. Hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống của các em vô cùng túng thiếu, bữa no còn lo chưa đủ. Do đó, khi về trường mình mong muốn làm điều gì đó để hỗ trợ cho các em học sinh", cô Hằng tâm sự.
Nghĩ là làm, cô Hằng xây dựng quỹ "Vì bạn nghèo", kêu gọi kinh phí từ cán bộ, giáo viên trong trường để hỗ trợ cho học trò. Từ ngày quỹ được thành lập, 37 em học sinh đã được hỗ trợ quần áo, sách vở để đến trường. Không những vậy, mỗi tháng quỹ sẽ chọn ra hai học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để hỗ trợ 200.000 đồng. Với những em học sinh khó khăn, có ý định nghỉ học, cô Hằng đến tận nhà khuyên nhủ các em cố gắng đến trường. Nếu có gì khó khăn, cô sẽ kêu gọi các mạnh thường quân hỗ trợ, giúp đỡ.
Nhận thấy học trò miền biên giới nhút nhát, ít tâm sự với thầy cô, bạn bè nên cô Hằng nghĩ đến việc xây dựng hòm thư "Điều em muốn nói". Thông qua hòm thư, các em học sinh có thể tự do góp ý, chia sẻ những việc làm tốt, xấu đã biết và chứng kiến. Từ đó, những việc làm sau trái bị lên án, góp phần nâng cao công tác giáo dục học sinh trong nhà trường.
"Nhiều em học sinh gia đình khó khăn nên không có cơ hội được bộc lộ năng khiếu hay sở thích của mình. Do đó, mình đã tổ chức một số câu lạc bộ, như âm nhạc, cờ vua, mỹ thuật... để các em có cơ hội tham gia. Từ đó, học sinh phát hiện năng khiếu của mình để có thời gian trau dồi, phát huy năng lực. Thông qua đó, mình hy vọng các em sẽ cố gắng nỗ lực để học tập, hoàn thành ước mơ. Mình luôn hy vọng và mong rằng những điều tốt đẹp sẽ đến với các em học sinh", cô Hằng chia sẻ.
Nhà trường tổ chức nhiều hoạt động thiết thực để học sinh biết sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.
Căn bệnh quái ác không cản được đam mê trồng người
Khoảng thời gian êm đềm cứ thế trôi qua, nhưng một ngày của năm 2018, cô Hằng bỗng thấy cơ thể mình mệt mỏi, đau đớn bất thường. Khi đến bệnh viện khám, cô suy sụp khi hay tin mình bị ung thư bàng quang. Những ngày đầu biết bệnh, cô Hằng chỉ biết khóc và sống thu mình, chịu đựng những cơn đau quằn quại đang hành hạ cơ thể. Kể từ đó, những lần hoá trị ngày một nhiều hơn. Mỗi lần như thế, cơ thể cô trở nên tiều tụy, nằm vật vã sau những cơn đau.
"Từ ngày tôi phát hiện mình bị ung thư bàng quang, người thân, bạn bè luôn ở bên cạnh động viên tôi cố gắng. Không những vậy, các em học sinh cũng thường xuyên viết thư tay động viên, khích lệ tôi cố gắng chiến thắng bệnh tật. Những điều đó đã giúp tôi cố gắng chống trọi, vượt qua những lần hoá trị. Ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh đã giúp tôi nhận ra rằng cuộc sống này thật đáng quý. Do đó, tôi nghĩ, bản thân mình phải cố gắng vượt qua bệnh tật để tiếp tục giúp đỡ, hỗ trợ học sinh nghèo đến trường", cô Hằng tâm sự.
Sau gần một năm chiến đấu với căn bệnh quái ác, cô Hằng trở lại hành trình trồng người của mình. Cô tiếp tục thực hiện những dự định còn dang dở để tiếp thêm sức mạnh cho học trò đến lớp. Ngoài thời gian trên trường, cô Hằng kết nối với nhiều nhà hảo tâm, mạnh thường quân để vận động quyên góp quần áo, sách vở cho các em học sinh khó khăn. Nhờ vậy, những em học sinh nghèo đều có đủ đầy quần áo, sách vở khi đến lớp.
"Mình chỉ mong ước bản thân có thật nhiều sức khoẻ để có thể đồng hành, hỗ trợ học trò nghèo vững bước đến trường. Ung thư không phải là dấu chấm hết mà nó là động lực giúp cho mình sống tốt hơn, sẻ chia nhiều hơn", cô Hằng bộc bạch.
Cô Hoàng Thị Bích Lân - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kim Đồng cho biết, từ ngày về trường nhận công tác, cô Nguyễn Thuý Hằng luôn là một giáo viên có năng lực, nhiệt tình và sáng tạo trong công việc.
Theo cô Lân, mặc dù mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo, nhưng cô Hằng vẫn hết lòng vì học trò. Theo đó, để tiếp sức cho học sinh nghèo đến trường, cô Hằng thường xuyên kêu gọi các nhà hảo tâm, mạnh thường quân hỗ trợ cho các em trong và ngoài trường. Nhờ vậy, trong nhiều năm liên đội đã nhận được Bằng khen, cờ thi đua của Trung ương đoàn, Tỉnh đoàn.
Mang tri thức đến với trẻ khuyết tật "Tri thức cho em" là một trong những hoạt động của CLB tiếng Anh ECEC (Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng) thực hiện tại Trung tâm Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam và trẻ em bất hạnh cơ sở 3 (xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng). Hoạt động mong muốn được chia sẻ, giúp...