Cần có cơ chế đặc thù cho giáo dục và đào tạo
Nếu có cơ chế đặc thù cho giáo dục và đào tạo như được quản lý và sử dụng con người, được làm chủ tài chính trong các hoạt động phát triển giáo dục…
sẽ tháo gỡ được nút thắt đổi mới giáo dục hiện nay.
Đây là đề xuất được nêu ra tại hội thảo Việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4.11.2013 Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 29), do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp Hội Hóa học Việt Nam tổ chức sáng 24.11.
Toàn cảnh hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Chủ tịch VUSTA Phan Xuân Dũng cho biết: Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29, nền giáo dục nước nhà đã có những bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng; nâng cao hiệu quả dạy và học, đáp ứng nhu cầu học tập của Nhân dân; góp phần phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của con người Việt Nam.
Cụ thể, các địa phương đã ban hành Chương trình hành động của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 29, Kế hoạch của UBND tỉnh thực hiện Chương trình hành động, thành lập Ban chỉ đạo đổi mới giáo dục và đào tạo tỉnh. Nhiều chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019, tạo hành lang pháp lý cho đổi mới giáo dục đại học.
Mục tiêu phổ cập và chuẩn hóa giáo dục mầm non theo Nghị quyết số 29 cơ bản hoàn thành. 100% đơn vị cấp huyện và tỉnh duy trì, đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục được tăng cường, tổng dự toán chi năm 2022 lên tới trên 330.000 tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2021.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, đã hoàn thành mục tiêu xây dụng Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, tập trung đầu tư bảo đảm trang thiết bị cơ sở vất chật, đội ngũ giáo viên, sách giáo khoa để triển khai hiệu quả chương trình. Chất lượng giáo dục đại học từng bước nâng lên, tiếp cận chuẩn quốc tế; các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên bảng xếp hạng uy tín của quốc tế.
Tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, học sinh Việt Nam đều đạt thành tích vượt trội. Năm 2022, đã giành 12 Huy chương Vàng, 11 Huy chương Bạc, 9 Huy chương Đồng. Đội tuyển Olympic Hóa học quốc tế xếp thứ 2, Olympic Toán xếp thứ 4 và Olympic Vật lý xếp thứ 5 thế giới…
Tuy nhiên, theo Chủ tịch VUSTA, vẫn còn một số hạn chế trong quá trình triển khai Nghị quyết số 29. Đó là chất lượng giáo dục đào tạo của các cấp học, ngành học và các địa phương chưa đồng đều; năng lực chuyên môn của một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục còn thấp; đời sống của giáo viên, viên chức giáo dục còn khó khăn, đặc biệt là giáo viên trẻ, mầm non. Năm 2022 có hơn 16.000 giáo viên phải chuyển việc ảnh hưởng hông nhỏ đến hoạt động dạy và học. Chi ngân sách cho giáo dục chưa đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách như Nghị quyết số 29 đề ra…
Từ thực tế hiện nay, các đại biểu tham dự hội thảo đã đề xuất nhiều giải pháp để triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 29, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới.
Nhắc lại quan điểm của Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII và Nghị quyết số 29 “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, PGS.TS Tô Bá Trượng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục cho rằng, phải có cơ chế đặc thù cho giáo dục và đào tạo như được quản lý và sử dụng con người, được làm chủ tài chính trong các hoạt động phát triển giáo dục. Cùng với đó, cho phép giáo dục và đào tạo xây dựng những chương trình trọng điểm của quốc gia, như đào tạo nhân lực cho giáo dục, chương trình kiên cố hóa trường học, nhà công vụ cho giáo viên…. “Giải pháp này không cần nhiều nguồn lực nhưng tháo gỡ được những nút thắt, rào cản đổi mới giáo dục hiện nay”, ông Trượng nhấn mạnh.
Cũng theo vị chuyên gia này, trong giai đoạn 2021 – 2025, ngành giáo dục nên chọn đổi mới về đào tạo, bồi dưỡng, cơ chế, chính sách đối với giáo viên, bởi đây là nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới giáo dục, cùng với ddooioj ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Theo đó, cần rà soát, sắp xếp lại mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm tại các vùng, miền và củng cố các trường cao đẳng sư phạm, cơ sở đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở các địa phương theo mô hình vệ tinh với các trường đại học sư phạm trọng điểm. Có cơ chế, chính sách tiền lương, phụ cấp ưu đãi tối thiểu bảo đảm cho giáo viên có được điều kiện tối thiểu để sống và dạy học.
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý trong giáo dục, coi trọng quản lý chất lượng, hiệu quả quản trị nhà trường, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản trị nhân sự và tài chính; đẩy nhanh áp dụng công nghệ thông tin trong giáo dục…
Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là một giải pháp quan trọng để giúp đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi thoát nghèo, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã đặt ra mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong đó, chú trọng phát triển giáo dục mầm non - cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục, đặt nền móng cho sự phát triển của đồng bào DTTS.
Giáo dục mầm non vùng đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục với mục tiêu phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1. Chính vì vậy, giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng cho trẻ em. Tuy nhiên, việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3-4 tuổi đặt ra nhiều thách thức đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS.
Tính đến cuối năm học 2021 - 2022, cả nước có 30.786 cơ sở giáo dục mầm non (15.401 trường mầm non, 15.385 cơ sở giáo dục mầm non độc lập). Có 995.821 lượt trẻ mẫu giáo được hỗ trợ ăn trưa với kinh phí 1.170 tỷ đồng; 28.837 giáo viên được hưởng chính sách đối với giáo viên dạy lớp ghép, tăng cường tiếng Việt với tổng kinh phí 561 tỷ đồng...
Theo thống kế, số trường vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn chiếm tỷ lệ 23% tổng số trường mầm non toàn quốc. Các trường này chủ yếu nằm ở vùng miền núi, vùng đồng bào DTTS, vùng biên giới, hải đảo. Trong năm qua, giáo dục mầm non vùng khó khăn có chất lượng còn thấp, tỷ lệ chuyên cần thấp, tỷ lệ huy động trẻ ra lớp thấp, đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ. Việc phổ cập giáo dục mầm non gặp phải một số khó khăn do địa bàn trải rộng, nhiều điểm trường có số trẻ ít nên khó bố trí giáo viên đứng lớp, cơ sở vật chất thiếu thốn.
Trước những khó khăn này, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với ngành giáo dục và các cơ quan chức năng của từng địa phương thông qua Sở Giáo dục và Đào tạo, cùng với các trường mẫu giáo công lập trên địa bàn tỉnh, phường xã, thị trấn hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia phát triển giáo dục mầm non tại địa phương theo Luật Giáo dục, như: chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt công tác quản lý các cơ sở giáo dục mầm non, thu hút nguồn lực đầu tư cho giáo dục mầm non, thực hiện nghiêm quy định về chuyên môn, tổ chức quản lý tốt trẻ em, quan tâm, giúp đỡ trẻ có hoàn cảnh khó khăn; đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ; đảm bảo đủ số lượng phòng học, công trình vệ sinh, nước sạch đáp ứng yêu cầu chăm sóc, giáo dục trẻ; đảm bảo chế độ chính sách cho giáo viên mầm non; tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Mặt trận, ngành Giáo dục và các ban, ngành, đoàn thể phát động, triển khai, góp phần tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Lào Cai tiên phong trong việc phổ cập giáo dục mầm non (Ảnh: Laocai.gov.vn)
Tại Lào Cai - địa phương tiên phong trong việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non, tỉnh đã tạo mọi điều kiện, nguồn lực để huy động trẻ ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo đến cơ sở giáo dục mầm non. Lào Cai đã triển khai thí điểm phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 4 tuổi tại 8 huyện, thị xã, thành phố. Theo số liệu thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai, tính đến tháng 8/2022, toàn tỉnh có 197 trường mầm non, 58.507 trẻ em đến trường, lớp; tỉ lệ huy động nhà trẻ đạt 27,8%, mẫu giáo đạt 96,9%; trong đó: huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,8%; trẻ mẫu giáo 4 tuổi đạt 98,0%, mẫu giáo 3 tuổi đạt 95,5%. Tỉnh Lào Cai và 100% đơn vị cấp xã, cấp huyện duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi.
Ngành Giáo dục và Đào tạo Lào Cai đặt mục tiêu: Giai đoạn 2023-2024 công nhận mới 90 xã, phường, thị trấn; nâng tổng số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 4 tuổi lên 148/152, đạt 97,3%; 9/9 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 4 tuổi; quý I/2025, tỉnh Lào Cai đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 4 tuổi.
Tuy nhiên, giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức như một số quy định, cơ chế, chính sách chưa được sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đội ngũ giáo viên mầm non còn thiếu; nhiều trường mầm non phải bố trí vượt quá số điểm trường quy định và khoảng cách giữa các điểm xa nhau; thiếu nguồn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi cho trẻ...
Để đạt những mục tiêu đã đề ra, ngành giáo dục và đào tạo Lào Cai đã tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong việc tuyển dụng giáo viên mầm non; bồi dưỡng nâng cao trình độ chuẩn cho giáo viên; hoàn thiện mạng lưới trường lớp; xây phòng học mới và mua sắm thiết bị dạy học; đồng thời giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe và tầm vóc cho trẻ.
Tại tỉnh Điện Biên, thực hiện Nghị định số 105 của Chính phủ, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 03/2021/NQ-HĐND Quy định các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ các hoạt động của nhà trường đối với các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn.Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh cũng đã triển khai các chính sách hỗ trợ trẻ em. Cụ thể, năm học 2021-2022, có hơn 36.600 trẻ em được hỗ trợ tiền ăn trưa với kinh phí hỗ trợ trên 47 tỷ đồng. Hỗ trợ nhân viên nấu ăn đối với các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn với tổng kinh phí trên 18 tỷ đồng. Đồng thời, thực hiện chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non dạy lớp ghép, tăng cường tiếng Việt cho trẻ người DTTS trong 2 năm học 2020-2021, 2021-2022 hơn 14 tỷ đồng.
Trong suốt những năm qua, tỉnh Bắc Kạn, nơi có DTTS chiếm gần 90%, luôn triển khai thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ giáo dục vùng DTTS : Thực hiện tốt việc huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non, góp phần duy trì vững chắc các tiêu chuẩn công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 100%; 100% trẻ em 5 tuổi hoàn thành Chương trình giáo dục mầm non
Những khó khăn trong giáo dục mần non nói riêng và các cấp học nói chung ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là vấn đề kinh phí mà với điều kiện địa hình hiểm trở, nhiều địa bàn vùng núi cao, giao thông không thuận lợi, nhiều nơi đường đất, dốc đứng, vùng hải đảo xa đất liền, dân cư sống rải rác đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện sắp xếp, sáp nhập mạng lưới trường, điểm trường mầm non. Do vậy, mặc dù giáo dục mầm non vùng khó khăn được quan tâm đầu tư, nhưng mới chỉ thu hút được 59,1% trẻ em đến trường,
Thời gian tới, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng bền vững, ưu tiên địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng khó khăn; việc đề xuất xây dựng hệ thống nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ thông tin phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn cần có sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chung tay góp sức của các ban ngành, địa phương, cấp ủy chính quyền các cấp và toàn xã hội./.
Những trăn trở của người thầy trong bối cảnh đổi mới Phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong ba đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực được Đảng, Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt, nhất là trong bối cảnh đổi mới, phát triển và hội nhập đất...